(Đọc tập thơ “Ngồi Nhớ Ca Dao” của Bích Thượng Thổ)
1. Những điệp khúc
ca dao.
“Bủa câu trên nhánh
sông đời
Vớt lên được tiếng
à ơi năm nào
Mẹ buồn trên ngọn
ca dao
Con ngồi tát vợi
một ao xuân thì”
“Vét mương dẫn nắng
vào đêm
Tàn trăng gầy rụng
bên thềm ca dao
Anh nằm bên canh
giấc chiêm bao
Câu thơ đớp động
mặt ao nắng vàng”
“Chạp bồi hồi nắm
tay giêng
Dẫu nghèo, quê tết
xóm giềng nôn nao
Cội buồn đơm nụ ca
dao
Quê ơi, nhớ quá làm
sao mà về!”
“Khuôn mặt đầu đã
dần phai
Thuyền trôi qua đủ
mười hai bến tình
Buông câu hò sáng
lung linh
Tìm vay âm tự, lập
trình ca dao”
“Chạp gần vọng
tiếng quê xa
Khoảng sân xưa, cội
mai già ôi chao
Ngồi thừ ôm bụng ca
dao
Nghẹn ngào chợt nhớ
tiếng rao bên thềm”
...
(Tích từ tập “Ngồi
Nhớ Ca Dao”, phần “Lục Bát Ca Dao”).
Với 17 đoản khúc
trong phần “Lục Bát Ca Dao” này đều xoay quanh bởi điệp từ “ca dao”. Ca dao là
hạt nhân, véc tơ zero phát đi mọi hướng, làm một “vụ Big bang trong tâm hồn”.
Hình ảnh “mẹ, em, trăng, thuyền, sông...” những gì thân quen, quê hương nhất.
Đó là cội rễ, nguồn gốc, là tâm hồn thi sĩ đã “tự động hoá”: “Buông câu hò
sáng lung linh/ Tìm vay âm tự, lập trình ca dao”. Trong hình thức thơ
truyền thống, nhà thơ Bích Thượng Thổ khéo gieo ngôn từ mới vào lục bát
làm nên sự “lung linh”, tiếp cận hiện đại và gần gũi với sự phát triển ngôn ngữ
xã hội.
2. Điệp cú “Tôi đo...”
“Tôi đo vũ trụ
phân kỳ
Bằng gia lực kế của
thi văn đàn
Bẵng quên tâm dũ cơ
hàn
Khi nhìn hoa chữ nở
tràn ruộng Face!
*
Tôi đo vũ trụ triền
miên
Đâu hay em chép pho
thiên sử tình
Em hân hoan đón
bình minh
Tôi ngồi lặng lẽ,
giọt thinh không... tràn
*
Tôi đo vũ trụ thân
thương
Lao theo ánh sáng
vầng dương mệt nhoài
Đo chưa quen, đếm
lộn hoài
Buồn như cái thuở
lạc loài bên nhau!
*
Tôi đo vũ trụ tim
tôi
Còn nguyên đứa trẻ
mồ côi quê nhà
Bước trên quê mới
bôn ba
Viễn trông theo
bóng chiều tà... quê xưa
*
Tôi đo vũ trụ thênh
thang
Bằng biên độ nới
mênh mang của chiều
Tính ra có biết bao
điều
Nguyễn Du đã nói
trong Kiều hết đâu!”
(Tích từ tập “Ngồi Nhớ
Ca Dao”, phần “Tôi Đo Vũ Trụ”).
Nếu như ở “Lục Bát Ca Dao”
thiên về quê hương, nguồn cội thì “Tôi Đo Vũ Trụ”, thơ “đi sâu” vào chiều kích
không thời gian: Vũ trụ thực, mơ; vũ trụ ký ức, tương lai; vũ trụ nới biên độ,
thẳm sâu trong tâm hồn “tim tôi”. Bằng cách điệp cú, tiến vòng trôn để phát
triển tứ thơ. Với 108 khúc của đo vũ trụ, thơ Bích Thượng Thổ “trườn”
qua mọi ngóc ngách để “phân phát quà” như ông già Noel có phép thuật. Không,
thơ là sự nghệ thuật và tài năng của người viết: Ngắn không thiếu và dài không
thừa. Con số 108 rất gợi.
3. Lục bát bốn câu.
Đa phần mỗi đoản
khúc, nhà thơ đánh số cho nó. Tuy nhiên, có đoản khúc đặt nhan đề; lúc ấy đoản
khúc hướng đến bài thơ hơn (đây là cảm giác về hình thức; nội dung thì mỗi khúc
hay bài đã là một ý trọn vẹn).
Trên thông số, tần
rung cảm quan “ca dao”, nhà thơ làm bệ phóng để bay cao, bay xa, chu du vào
thiên hà. Đương nhiên, trên dặm trình thiên thu đó, có khi anh thấy mình không
kịp vui buồn với cuộc đời. Một ý niệm thời gian, thời cuộc:
“Trên tần số của
ca dao
Anh xây bệ phóng
vượt rào cho thơ
Thiên thu cười vẫy
tay chờ
Tôi vừa bước hụt
qua bờ trăm năm
(Bước hụt)
Thơ Bích Thượng Thổ có
những cú “quay ngoắt” hay “lấy đà” rất đặc sắc đầy ý tưởng; những phép ẩn, hoán
dụ, nhân hoá... làm nên những câu thơ vừa lạ, vừa quen và gợi mở:
“Em từ vô lượng heo may
Gửi em cuối hạ một
ngày đông pha
Vớt lên một mảng
quan hà
Hiên ngang anh gánh
trăng tà quạnh hiu”
(Hiên ngang)
Áp dụng không chỉ ngôn ngữ
đời thường, ngôn ngữ hiện đại của kỹ thuật công nghệ mà thơ anh còn dùng cả các
từ rất chuyên môn từ các lĩnh vực: Lý, Hoá, Toán... những đạo hàm, bình phương,
lượng giác, đường tiệm cận, toạ độ... Qua đó, thể hiện góc nhìn, thế giới quan
đa chiều nhân sinh:
“Hai thanh đường
sắc song song
Trong tình yêu có
tên mong và chờ
Thanh tà vệt nối là
thơ
Mà anh làm giữa
khung giờ nhớ em”
(Tuyến hỏa xa
tình yêu)
Cuộc sống này vốn nhỉ quay
xoay, “bể khổ” song vượt qua bằng cách nắm lấy quy luật để lách mình; “vớt” tâm
tư, nỗi buồn lên để sống nhặt khoan và hân hoan:
“Vớt buồn cho
ráo câu thơ
Vớt vui xếp tặng
nhau giờ hân hoan
Vớt canh đời bọt lo
toan
Vớt tình em, nhịp
nhặt khoan bên đời”
(Vớt)
Thơ, người thơ Bích Thượng
Thổ có hơn hai mươi năm theo học Phật nên tính/ chất Thiền trong thơ anh là một
chủ đề khá lớn. Thiền như một hướng tình lại chính mình, ngẫm nghĩ về mình và
tìm cái vô thức, bản ngã trong đó. Song, mỗi sát na có khi nhà thơ tự giễu mình:
“Biết rằng ngũ
uẩn giai không
Vậy mà mất một...
sợi lông cũng buồn
Một hôm lần tới
ngọn nguồn
Mới hay... lông với
nỗi buồn cũng không!”
(Học kinh bát
nhã tự giễu mình)
Đằng sau sư giễu mình ấy là
cả đốn/ giác ngộ cho mình, cho đời.
Có lẽ, trên phương
tiện hiện đại, thời đại bây giờ, con người ta ưa nhanh hơn mạnh; ý là về thông
tin. Bản thân người đọc cũng đọc “cái gì đó” ngăn ngắn, lướt nhanh. Việc lướt
kia có thể là hời hợt song mỗi thức hệ, mỗi thời đại lại có những “thông số” khác
nhau. Vì vậy, những “bốn câu” - đoản khúc - bài thơ ngắn như ca dao ấy lại là
một nét đẹp, nét duyên.
Để kết thúc bài
viết nhỏ (xíu) này, tôi xin trích bốn câu của nhà thơ cảm khái không thời gian: “Đêm buồn ngồi nhớ ca dao/ Đôi chân lục bát lội vào cố hương/
Đào chôn kỷ niệm một rương/ Bão quê, chim Việt mười phương lạc loài”. Tôi
xin thưa với nhà thơ Bích Thượng Thổ là “Chim Việt” không lạc loài đâu
ạ! Thế giới luôn có kim chỉ nam, cũng như thơ bắt nguồn từ ca dao, từ lời ru,
từ tâm hồn, nguồn cội. Thơ làm một phép “đạo hàm” nhân sinh và chứng minh những
quy nạp, thơ không khác gì mật mã, mã QR... nếu tâm hồn thơ rộng mở thì thế
giới là vô lượng, vô biên.
N.G
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét