NHỮNG ĐOẢN KHÚC RỜI CỦA BÍCH THƯỢNG THỔ - Nam Giản - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

NHỮNG ĐOẢN KHÚC RỜI CỦA BÍCH THƯỢNG THỔ - Nam Giản


(Đọc tập thơ “Ngồi Nhớ Ca Dao” của Bích Thượng Thổ)    


           Thơ Bích Thượng Thổ (Đặng Toản) có nhiều thể loại và đề tài. Tôi thích nhất có lẽ là những “Đoản khúc rời” của anh. Mỗi đoản khúc là 4 câu (2 cặp lục bát), nó “be bé”, “xinh xinh” ... như một nét duyên ngầm len lõi tâm tư. Là dòng “ca dao” tha thiết; là lời ru ngọt ngào; là nửa vầng trăng huyền; đôi triêng gióng hay chỉ là sóng của dòng sông... thơ lời ngắn mà tình dài.

          1. Những điệp khúc ca dao.

          Bủa câu trên nhánh sông đời

          Vớt lên được tiếng à ơi năm nào

          Mẹ buồn trên ngọn ca dao

          Con ngồi tát vợi một ao xuân thì”

         

          “Vét mương dẫn nắng vào đêm

          Tàn trăng gầy rụng bên thềm ca dao

          Anh nằm bên canh giấc chiêm bao

          Câu thơ đớp động mặt ao nắng vàng”

         

          “Chạp bồi hồi nắm tay giêng

          Dẫu nghèo, quê tết xóm giềng nôn nao

          Cội buồn đơm nụ ca dao

          Quê ơi, nhớ quá làm sao mà về!”

         

          “Khuôn mặt đầu đã dần phai

          Thuyền trôi qua đủ mười hai bến tình

          Buông câu hò sáng lung linh

          Tìm vay âm tự, lập trình ca dao”

         

          “Chạp gần vọng tiếng quê xa

          Khoảng sân xưa, cội mai già ôi chao

          Ngồi thừ ôm bụng ca dao

          Nghẹn ngào chợt nhớ tiếng rao bên thềm”

          ...

          (Tích từ tập “Ngồi Nhớ Ca Dao”, phần “Lục Bát Ca Dao”).

          Với 17 đoản khúc trong phần “Lục Bát Ca Dao” này đều xoay quanh bởi điệp từ “ca dao”. Ca dao là hạt nhân, véc tơ zero phát đi mọi hướng, làm một “vụ Big bang trong tâm hồn”. Hình ảnh “mẹ, em, trăng, thuyền, sông...” những gì thân quen, quê hương nhất. Đó là cội rễ, nguồn gốc, là tâm hồn thi sĩ đã “tự động hoá”: “Buông câu hò sáng lung linh/ Tìm vay âm tự, lập trình ca dao”. Trong hình thức thơ truyền thống, nhà thơ Bích Thượng Thổ khéo gieo ngôn từ mới vào lục bát làm nên sự “lung linh”, tiếp cận hiện đại và gần gũi với sự phát triển ngôn ngữ xã hội. 

          2. Điệp cú “Tôi đo...”

          Tôi đo vũ trụ phân kỳ

          Bằng gia lực kế của thi văn đàn

          Bẵng quên tâm dũ cơ hàn

          Khi nhìn hoa chữ nở tràn ruộng Face!

          *

          Tôi đo vũ trụ triền miên

          Đâu hay em chép pho thiên sử tình

          Em hân hoan đón bình minh

          Tôi ngồi lặng lẽ, giọt thinh không... tràn

          *

          Tôi đo vũ trụ thân thương

          Lao theo ánh sáng vầng dương mệt nhoài

          Đo chưa quen, đếm lộn hoài

          Buồn như cái thuở lạc loài bên nhau!

          *

          Tôi đo vũ trụ tim tôi

          Còn nguyên đứa trẻ mồ côi quê nhà

          Bước trên quê mới bôn ba

          Viễn trông theo bóng chiều tà... quê xưa

          *

          Tôi đo vũ trụ thênh thang

          Bằng biên độ nới mênh mang của chiều

          Tính ra có biết bao điều

          Nguyễn Du đã nói trong Kiều hết đâu!”

          (Tích từ tập “Ngồi Nhớ Ca Dao”, phần “Tôi Đo Vũ Trụ”).

          Nếu như ở “Lục Bát Ca Dao” thiên về quê hương, nguồn cội thì “Tôi Đo Vũ Trụ”, thơ “đi sâu” vào chiều kích không thời gian: Vũ trụ thực, mơ; vũ trụ ký ức, tương lai; vũ trụ nới biên độ, thẳm sâu trong tâm hồn “tim tôi”. Bằng cách điệp cú, tiến vòng trôn để phát triển tứ thơ. Với 108 khúc của đo vũ trụ, thơ Bích Thượng Thổ “trườn” qua mọi ngóc ngách để “phân phát quà” như ông già Noel có phép thuật. Không, thơ là sự nghệ thuật và tài năng của người viết: Ngắn không thiếu và dài không thừa. Con số 108 rất gợi. 

            3. Lục bát bốn câu.

          Đa phần mỗi đoản khúc, nhà thơ đánh số cho nó. Tuy nhiên, có đoản khúc đặt nhan đề; lúc ấy đoản khúc hướng đến bài thơ hơn (đây là cảm giác về hình thức; nội dung thì mỗi khúc hay bài đã là một ý trọn vẹn).

          Trên thông số, tần rung cảm quan “ca dao”, nhà thơ làm bệ phóng để bay cao, bay xa, chu du vào thiên hà. Đương nhiên, trên dặm trình thiên thu đó, có khi anh thấy mình không kịp vui buồn với cuộc đời. Một ý niệm thời gian, thời cuộc:

          Trên tần số của ca dao

          Anh xây bệ phóng vượt rào cho thơ

          Thiên thu cười vẫy tay chờ

          Tôi vừa bước hụt qua bờ trăm năm

          (Bước hụt)

          Thơ Bích Thượng Thổ có những cú “quay ngoắt” hay “lấy đà” rất đặc sắc đầy ý tưởng; những phép ẩn, hoán dụ, nhân hoá... làm nên những câu thơ vừa lạ, vừa quen và gợi mở:

          Em từ vô lượng heo may

          Gửi em cuối hạ một ngày đông pha

          Vớt lên một mảng quan hà

          Hiên ngang anh gánh trăng tà quạnh hiu

          (Hiên ngang)

          Áp dụng không chỉ ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ hiện đại của kỹ thuật công nghệ mà thơ anh còn dùng cả các từ rất chuyên môn từ các lĩnh vực: Lý, Hoá, Toán... những đạo hàm, bình phương, lượng giác, đường tiệm cận, toạ độ... Qua đó, thể hiện góc nhìn, thế giới quan đa chiều nhân sinh:

          Hai thanh đường sắc song song

          Trong tình yêu có tên mong và chờ

          Thanh tà vệt nối là thơ

          Mà anh làm giữa khung giờ nhớ em

          (Tuyến hỏa xa tình yêu)

          Cuộc sống này vốn nhỉ quay xoay, “bể khổ” song vượt qua bằng cách nắm lấy quy luật để lách mình; “vớt” tâm tư, nỗi buồn lên để sống nhặt khoan và hân hoan:

          Vớt buồn cho ráo câu thơ

          Vớt vui xếp tặng nhau giờ hân hoan

          Vớt canh đời bọt lo toan

          Vớt tình em, nhịp nhặt khoan bên đời

          (Vớt)

          Thơ, người thơ Bích Thượng Thổ có hơn hai mươi năm theo học Phật nên tính/ chất Thiền trong thơ anh là một chủ đề khá lớn. Thiền như một hướng tình lại chính mình, ngẫm nghĩ về mình và tìm cái vô thức, bản ngã trong đó. Song, mỗi sát na có khi nhà thơ tự giễu mình:

          Biết rằng ngũ uẩn giai không

          Vậy mà mất một... sợi lông cũng buồn

          Một hôm lần tới ngọn nguồn

          Mới hay... lông với nỗi buồn cũng không!”

          (Học kinh bát nhã tự giễu mình)

          Đằng sau sư giễu mình ấy là cả đốn/ giác ngộ cho mình, cho đời.

          Có lẽ, trên phương tiện hiện đại, thời đại bây giờ, con người ta ưa nhanh hơn mạnh; ý là về thông tin. Bản thân người đọc cũng đọc “cái gì đó” ngăn ngắn, lướt nhanh. Việc lướt kia có thể là hời hợt song mỗi thức hệ, mỗi thời đại lại có những “thông số” khác nhau. Vì vậy, những “bốn câu” - đoản khúc - bài thơ ngắn như ca dao ấy lại là một nét đẹp, nét duyên. 

          Để kết thúc bài viết nhỏ (xíu) này, tôi xin trích bốn câu của nhà thơ cảm khái không thời gian: “Đêm buồn ngồi nhớ ca dao/ Đôi chân lục bát lội vào cố hương/ Đào chôn kỷ niệm một rương/ Bão quê, chim Việt mười phương lạc loài”. Tôi xin thưa với nhà thơ Bích Thượng Thổ là “Chim Việt” không lạc loài đâu ạ! Thế giới luôn có kim chỉ nam, cũng như thơ bắt nguồn từ ca dao, từ lời ru, từ tâm hồn, nguồn cội. Thơ làm một phép “đạo hàm” nhân sinh và chứng minh những quy nạp, thơ không khác gì mật mã, mã QR... nếu tâm hồn thơ rộng mở thì thế giới là vô lượng, vô biên.

N.G

Không có nhận xét nào:

Trang