(Đọc tập thơ “Ẩn thoại đêm” của Đặng Toản)
Có những nỗi nhớ không thành lời,
có những ký ức không gọi tên nhưng chúng vẫn hiện hữu, âm thầm chiếm lĩnh tâm hồn
ta. Thơ Đặng Toản chính là sự hiện thân của những miền ký ức ấy, nơi “nỗi nhớ
ăn đong” trong từng vần thơ, từng hình ảnh, từng hơi thở thời gian:
“Tha
hương nỗi nhớ ăn đong
Ngu ngơ dòng chảy thấm trong kiếp người”
(Tạ
lỗi vé tàu)
Một không gian định ra (tha hương) và
thời gian lùi lại (nỗi nhớ), không thời gian ấy là điểm “xuất phát”, là góc
nhìn, là “bệ phóng” cho vần thơ tha thiết lên ngôi. Nói ngoa một chút thì thơ Đặng Toản gần như nằm trong “vùng nhớ”.
Vùng ký ức bao hàm cả thực mộng; từ vầng trăng thương, tà áo em, phiến lá hay
trong “thuỳ não nhớ” lấp lánh ánh quê nhà; quê hương xa và xưa. Chẳng hạn:
“Con
chim gõ kiến trong lòng cất
Từng nhịp âm thầm, thương nhớ quê
Người xưa không biết ai còn, mất
Một gánh, hai vai nhật nguyệt về”
(Màu
xuân)
Nỗi nhớ âm thầm len lỏi trong từng
vần thơ, dõi theo dòng ký ức cội nguồn, âm ỉ mà da diết, day dứt không nguôi:
“Em
gầy hạ buồn
Còn chút thơ ngây
Mơ về cội nguồn
Lòng nhớ không nguôi”
(Chiều
đã quàng vai)
Hoặc trên “phím” mưa nắng của đất trời
- trạng thái đổi thay của thiên nhiên, nhà thơ cũng vướng víu: “Mưa gầy hạt, nhớ phố xa/ Rơi trên áo hẹn một
tà hiển linh” (Mưa). “Khi gió xuân đã gọi mời/ Phiến đôi lá nhớ
đang rời cội thu” (Muộn phiền trổ
bông). Có thể có một lần mưa thu làm lỗi hẹn; có thể có mưa xuân vương áo hẹn
thề. Mưa ấy, mưa miền ký ức. Mưa hiển hiện trong tiềm thức, trong “tà áo hiển
linh”. Dư vị mộng thực trộn trong thơ khó phân.
Nhớ quê là mạch nhớ vô cùng của tác giả.
Đôi khi, nhà thơ nghe chiếc lá rơi hay nốt nhạc quê cũng đã đủ “dư chấn”:
“Nằm
nghe bài hát “Hà Nội phố”
Nhớ cành hoa sữa mặn mà
Có tiếng Sâm Cầm cánh vỗ
Từ lời nhạc Trịnh bay ra...”
(Hà
Nội trong mắt thiên di)
Thêm một giác quan (thính giác) nữa khơi niềm
nhớ. Năm giác quan nhớ. Không! Đặng Toản nhớ quê hơn cả năm giác quan. Anh nhớ
bằng tâm hồn, bằng cả ý thức và vô thức. Anh trì hoãn chiêm bao để kháp mặt, đối
thoại với những gì mình muốn gặp gỡ, muốn lưu giữ: “Anh trì hoãn với chiêm bao/ Để thuỳ não nhớ thì thào nói thêm” (Trì hoãn).
***
Thơ Đặng Toản có nhiều thể loại, nhiều
đề tài, nhiều trường cảm xúc khác nhau. Riêng trong trường nhớ - mạch ký ức,
anh dành khá nhiều nỗi nhớ về em, về hình bóng nàng thơ:
“Bằng
môi em còn đọng trong trí nhớ
Lúc chia tay
Những cánh chim xanh vẫn còn mắc nợ
mùa thu”
(Cánh
tay mùa thu)
Hay:
“Trắng
ngày đông đã thụ phong
Cuộn em tuyết nhớ, buồn cong mắt gầy
Cánh nhung chim vỗ xanh bầy
Băng qua giới hạn thơ đầy nếp nhăn”
(Hoá
trai)
Từ nét diễm đài của nàng thơ: làn tóc
thoảng hương, ánh mắt biết nói, vành môi cong lượn sóng thuỳ dương... cái tuyệt
mỹ ấy là thơ, là tình, lắm ngọt ngào song lại “Là con dao làm tim rỉ máu”. Và,
nỗi khát vọng nhớ vòng, đến hạn, có chu kỳ nếu không muốn nói là một quy luật:
“Em về hắt nhớ lên tôi/ Lời thương rơi xuống
bờ môi định kỳ/ Tôi về vĩ độ chia ly/ Đường kinh tuyến cắt xuân thì quay nhanh”
(Em về). Vĩ độ chia ly, kinh tuyết
và xuân thì trôi nhanh là những hình tượng thơ rất mới, gợi và đẹp.
Vầng trăng, ánh nguyệt chưa bao giờ tịnh trong
thơ tình, phai trong sự so sánh vẻ đẹp và vắng trong mối tương quan về em.
Trăng trong thơ Đặng Toản nhiều cung bậc. Trăng tuyệt mĩ, trăng tàn, trăng mười
sáu, trăng thượng - hạ huyền... song khi “trăng nhớ vỡ toang” thì:
“Khi
vầng trăng nhớ vỡ toang
Xếp u hoài chất vào khoang thuyền mùa
Khúc sông vắng, nhịp sông đùa
Màu thương đã vẽ đạo bùa lên mui”
(Còn)
Khúc sông, bến và thuyền dưới trăng vời
vợi, u hoài. Màu thương yêu ấy thành một điều gì đó vừa thiêng liêng vừa huyền
hoặc khó tả “đạo bùa lên mui”. Nó bao hàm tần số tâm linh, bao hàm vỉa tầng văn
hoá của miền quê. Thơ Đặng Toản có lúc mộc mạc chân quê, vớt bèo từ ao hồ song
có khi lại hiện đại đến mức “hậu hiện đại; có khi câu thơ đằm thắm như lục bát
ca dao, lời ru song có lúc lại dữ dội, thét gào trên các biên độ sóng của từ
trường rung chuyển. Thơ anh vừa nói thật và cũng vừa ẩn, hoán dụ..., ví như:
“Em
rút từ mặt trời một tia ấm
Để cắt vào tôi một lát nhớ”
(U
hiển phố)
Câu thơ như tia nắng xuyên vào lòng bạn
đọc mà không cần “phiên dịch”.
***
Nhớ quê, nhớ em đôi lúc quay sang nhớ
mình; chính xác là khẳng định lại mình, tìm về hiện tại. Nỗi nhớ kia chỉ là vu
vơ, chỉ là bâng quơ?
“Làm
người thợ hằng ngày khiêng sắt cần cù
Và không nhớ bâng quơ
Hôm nay gió Bắc Cực thổi về
Khi chợt nhìn ra bầu trời đông xám”
(Chợt
nhớ màu xanh)
Tác giả giới thiệu, “bí mật” một chút
cuộc sống của mình hay đang bật mí ngày gió Bắc cực quay về. Gió lạnh xuyên qua
khơi vạn sự “lung lay” tâm hồn.
Đặng Toản có lần tâm sự, anh sợ “mất
đi nỗi nhớ”, nỗi nhớ như “sinh mệnh”, sợ lúc tàn hơi: “Cơn gió nào xanh vào ký ức/ Thổi vào nỗi nhớ sắp tàn hơi” (Trả nợ triền sương). Bởi lẽ, cuộc sống
vào thời hiện tại là một chất điểm, phía tương lai thu dần, quá khứ càng mở ra.
“Bầu trời quá khứ” giữ vững cho ta được “tung hoành” nhiều hơn. Nhớ, sự nhớ
càng sâu sắc, càng rõ ràng, càng kết nối... thì trên đường tuyến tính, véc tơ
làm người dài hơn chăng? Anh viết:
“Và
khi nỗi nhớ cắt cơn
Anh không thấy được em hờn anh đâu”
(Một
lần tay đan)
Vì thế, hồn thơ ấy “trau dồi”, nuôi dưỡng
chăm bón nỗi nhớ:
“Trau
dồi nỗi nhớ nằm vùng
Tình như xe ngựa đậu bùng binh quen
Môi tình, lục lạc đôi khoen
(Mặn
đồng Tương Giang)
“Mai
về anh đổ thêm hương nhớ
Chăm bón bầu thơ đã sắp cằn
Em đứng thật xa nhìn bỡ ngỡ
Con chữ gầy cũng biết trôi lăn”
(Con
chữ trôi lăn)
Rồi, thêm sự gom góp tất cả các mặt,
các yếu tố để được xích gần tình yêu”
“Gom
bao thương nhớ nằm vùng
Gom xa cù lũ, sảnh thùng đôi chân
Gom thơ anh đứng tần ngần
Gom can đảm xích lại gần bên em”
(Gom)
Hơn thế nữa, nhà thơ muốn ứng, áp dụng
vào thơ những khoa học để được “ngút ngàn nỗi nhớ”. “Cài lên thơ một ứng dụng đơn phương/ Anh di động trong ngút ngàn nỗi nhớ/
Hằng số là cơm, tình yêu là phở/ Mà cự ly quyết định lực từ trường” (Ứng dụng).
...
Thơ Đặng Toản vừa có hồn cổ điển, vừa
phả hơi hiện đại, vừa nồng nàn như câu ru, lại vừa sắc lạnh như lát cắt phân tử.
Từ chất quê cho đến ngôn ngữ triết học, từ cảm xúc bản năng đến trí tuệ - thơ
anh là bản giao hưởng đa tầng. Và xuyên suốt vẫn là một chữ "nhớ",
gói ghém cả thân phận người tha hương:
“Nhớ chi mà bắt nhớ hoài
Nhớ như mưa thấm lạnh ngoài vô trong
Nhớ, thương ngược chiều song song
Thương như lửa ấm từ trong ra ngoài
Nhớ thao thức, khó nguôi ngoai”
(Bồng
bềnh thơ)
Khép lại tập thơ “Ẩn Thoại đêm” (Nhà xuất bản Hoa Kỳ - 2024) với hơn 250 trang, không
chỉ mang về hồn thơ hay, mà còn giữ lại trong tim một vầng ký ức. Thơ anh không
gọi tên thời gian, nhưng khiến ta biết rằng: mình từng sống, từng nhớ, từng
thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét