CÂU CHUYỆN KỂ BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG NHÁNH LỤC BÌNH TRÔI
(Đọc thơ HỒ TRUNG CHÍNH)
Tác giả Đặng ToảnNgày còn ở quê hương, những khi nhàn rỗi có dịp ngồi một mình bên bờ sông nhìn những vạt lục bình trôi, tôi hay tự nhủ thầm: “không biết những cụm lục bình kia cuối cùng sẽ dừng chân ở đâu vậy nhỉ?” Nào ngờ một hôm tôi bất ngờ nhận ra là những cụm lục bình ngày xa xưa ấy đã trôi vào… nỗi nhớ!
Tôi cũng là một nhánh lục bình trôi xa quê đến nửa vòng trái đất, chỉ còn nhận được tin tức của quê hương qua FB và đọc thơ cũng vậy.
Trên FB nhà thơ Hồ Trung Chính cũng là một người bạn thơ vong niên, cư ngụ ở tỉnh Bạc Liêu Sóc Trăng, có lẽ anh lớn hơn tôi chừng 8 tuổi nên tôi hay gọi là thi huynh, gọi cho có khoảng cách gần gũi thế thôi chứ nói về tay nghề thơ anh chính là một bậc thầy (Ở trên FB cũng còn nhiều bậc thầy của tôi về thơ nữa nhưng chưa tiện nhắc ra ở đây)
Khi ngọn sóng sông Tiền vỗ qua chạm cơn gió mùa bên kia bờ sông Hậu, đánh thức những nỗi niềm u uẩn của người con đã từng uống ngụm nước của dòng sông Cái Lớn tự lúc thiếu thời, đã trở nên vụt sáng và ta có một người thơ Hồ Trung Chính.
“Giữa dòng sông Cái Lớn
Đất nổi cù lao Dung
…
Tôi hiện thân từ độ
Mẹ trở dạ bên cồn
Bao năm dài trú xứ
Theo dòng đời nổi trôi
Lục bình xưa vẫn tím
Con nước chảy bồi hồi”
(Nỗi nhớ Cù Lao Dung)
Thơ HTC những nỗi niềm đã đóng gói, trao đi và chưa bao giờ đòi hỏi nhận lại một dòng thù lao cảm nhận. Đọc thơ anh tôi hay đốt nến, ánh sáng nhẹ nhàng này cho ta một hiệu ứng liên tưởng tốt hơn những khi cố gắng bắt kịp mạch cảm xúc của người viết.
Anh thận trọng trong từng câu, chữ và tôi có cảm giác mỗi chữ trong câu rơi chậm như từng giọt cà phê phin đang ở trước mặt tôi… Giọng thơ hiền hòa, mượt, mịn và đằm
Dẫu sao thì ngày chào đời cũng là ngày quan trọng nhứt, hãy đọc:
“Xin tạ lỗi trần gian tôi lạc bước
Mấy mươi năm làm tên chăn dắt nỗi buồn
Xin được cháy cùng ngọn nến vàng chực tắt
Soi vào đêm từ thuở mất thiên đường”
(Ngọn nến)
Thật là một bài thơ cho ngày sinh nhật, buồn nhưng hay đặc biệt, cũng như:
“Trong veo tiếng khóc dạ đề
Một tôi hiện thể bên lề nhân sinh...”
Ở đây ta bất giác nhận ra là anh mặc nhiên đã xem mình là một ẩn thể (trước đó). Cũng như nhà thơ Nguyễn Đức Sơn đã từng viết:
“Chiều thu xưa tôi hiện xuống bên đời/ Xanh mắt biếc áo quần cùng sách vở…”
(Nói vui chút, chữ “hiện” thật là quan trọng bởi dường như chữ “hiện” này hay dùng cho những nhân vị cao cả, ví dụ như người thành kính trong các tôn giáo hay nói “Đức mẹ hiện ra ở... hay Phật Bà Quan Âm hiện ra ở...”. Người làm thơ từ trong bản chất luôn mang tâm niệm đem lại hòa bình cho thế giới cũng thật xứng đáng với chữ “hiện” này!) Trong câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đức Sơn lại còn có… “Hiện xuống” gần như một lời nhắn là ngày trước chắc là … “Người cõi trên” hi!
Bởi chữ hiện rất là quan trọng trong câu thơ cho nên kiếp người chỉ là một trong những giai đoạn của một chuỗi dài hiện thể, hiện ở cõi này tạm vắng ở cõi kia… và rồi sao nữa
“Lạc vào ngày tháng vô minh
Nghe trong khoảnh khắc, nhục hình cơn mê
Đường qua cõi tạm nhiêu khê
Gập ghềnh thân phận nằm kê nỗi sầu
Một mình tôi với cơn đau
Mới hay bạc tóc tìm nhau cuối trời”
(Mau về chốn cũ)
Những câu thơ phảng phất triết lý nhân sinh của Nho và Phật được viết một cách tài hoa nhưng không xa rời thực tế, và cũng chính vì (hay nhờ ) quan niệm Nho & Phật này mà trong thơ HTC, ta không thấy có nhiều hoài nghi về đau khổ nhưng hoài nghi về hạnh phúc thì lại có thừa.
Cụ Nguyễn Công Trứ xưa cũng từng phát biểu” “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, trần có vui sao chẳng cười khì?
Nên những lời thơ của HTC nghiêng về ý thức chấp nhận hơn là phản kháng!
“Ngày sắp lụn giữa mùa thu lộng chướng
Nỗi đau rừng đứng chịu những hàng cây
Biển vẫn sóng xô đời đi trăm ngả
Trong vô cùng đá núi dậy thiên tai...”
(Ưu thức)
Hoặc... “Ngày đi rủ bóng tôi về/ càn khôn vây hãm nằm kề sắc không/ thậm xưng một chốn bụi hồng/Con tim kham nhẫn gõ trùng sáng nay...” (Nguyễn Đức Sơn, viết bên thềm đời).
Đôi khi có những bóng ngày trầm tích trong đêm mà ta không biết, cứ ngỡ đêm là đêm và đêm đen hoàn toàn nhưng không phải vậy, tận cùng đêm có khi vụt sáng và ta được đọc những câu thơ hay đặc biệt:
“Chân chậm bước, ngày vô minh truy đuổi
Khúc kinh chiều hối lỗi với thân tâm
Lòng dục lạc ru thầm câu hư huyễn
Phải về thôi, chánh niệm đã bao lần...”
(Bài cuối năm Thìn)
Thơ có sự liên kết với huyền nhiệm rất khó giải thích, ở trong đời làm thơ may mắn, có khi người làm thơ vô tình mở cánh cửa huyền nhiệm này được một đôi lần, và thông thường thì cánh cửa mở ra bầu trời huyền nhiệm này khép kín, liền mí khít khao không thể lần ra giữa bức tường đời sống mà hiện thực lúc nào cũng tràn ngập, bao vây, thế nên thi nhân đã viết: “cúi đầu bái tạ sinh linh/ tìm trong bụi cát ngày thinh lặng về/ dạ thưa trầm khúc u mê/chiều man nhiên đã nằm kề khói sương...” (Trầm khúc).
Hay: “đêm nay ngồi chép lại mình/ nửa trăm năm, khúc ru tình, đã xưa/ ơ thờ, từng nhịp tim khua/ nghe trong giọt máu cũng vừa hoang thân/ đêm nay hơi thở chia phần nửa xa xôi nhớ, nửa gần niềm đau...” (Đêm của riêng mình)… Hai chữ hoang thân thật xuất sắc!
Phải thấy đời là khói sương thì mới biết cách dỗ dành chính mình và thấy đời là khói sương cũng là dấu ấn của bậc trí giả. Dẫu có phần yếm thế nhưng công đức của việc thấy đời là khói sương này rất là lớn vì nó triệt tiêu được tinh thần tranh đấu, tranh giành, được - thua và luôn luôn có thể chấp nhận mọi thiệt thòi mà vẫn có thể từ ái với chính mình cùng mọi người.
Đến với thơ Hồ Trung Chính là nhiều khi chợt phát hiện ra những phiên bản của mùa hạ đã mọc mầm trong mùa xuân... còn mùa thu và đông thì buồn như: “Đừng đỏ nữa những nhành hoa đã úa/ mùa thu ơi xin trả lại cho rừng/ những chiếc là thầm rơi tìm gốc cội/ đông đến rồi màu nắng cũng rung rung” (Ngẫu cảm mùa đông). Đã đành là như vậy nhưng mùa xuân mệnh danh là không bao giờ chịu song hành hay rao bán cho dù chỉ là dụ ngôn về sự thất sủng vậy mà cũng có những câu thơ buồn đến thế này trong một ngày đầu năm: “Ngày sẽ gió và mây mù đỉnh núi/ thương sao từng hạt bụi cuối đường bay/ ta như cỏ xanh theo ngày bổi hổi/ bước qua thềm sương gọi trắng ban mai...” (Với một ngày đầu năm).
Hạt bụi cuối đường bay có thân phận giống một kiếp người của anh, của tôi và tất cả mỗi chúng ta. Thơ đã ngọt hơn chiều như thế thì làm sao quên được sẽ còn chừa thêm một chỗ đứng cho đêm (!)
“Tôi chất thời gian vào lãng quên/ Mà vẫn chưa đầy một tiếng - em/ Nỗi nhớ rêu phong, ngày đã khép/ Buồn níu chân vào lăng tẩm đêm …”
Từ nhu liệu là nỗi buồn mà thi nhân đã chưng cất cho đời sống được nhiều câu thơ hay:
“Buồn rất chậm ôi ngày sao quá vội
Hết một đời không đủ nhớ thương nhau
Em nhan sắc giữa đời ta kiêu bạc
Giấc mơ nào hợp phố với hoàn châu…
... Trong nỗi nhớ đời chia hai nẻo tối
Ta như loài đom đóm giữa đêm sâu...”
(Những đoản khúc rời)
Thơ Hồ Trung Chính chưa có gì hứa hẹn sẽ vực dậy nụ cười nhưng thật thà triển hạn những ăn năn:
“Những vết cắn đã tím bầm tội lỗi
Đến bao giờ xóa được dấu ăn năn”
(Tháng chạp tôi & em và nỗi nhớ)
Chừng gió xa xôi đã thổi về ửng xanh bờ nhật nguyệt chớm lấm tấm vàng, thơ dỗ nguôi ngoai những nỗi niềm khắc khoải và khai thị một hướng nhìn về tương lai ăm ắp những chia ly! Những ngọt ngào gãy khúc và những cay đắng nối dài: “Mới hay nỗi nhớ cũng già/ Năm đi tháng lại, ngày qua đã từng/ Bóng mình đuổi miết sau lưng/ Lối xưa nào gọi bàn chân đá mòn”. “Hai vai gánh một vô thường/ Một linh hồn rỗng về nương tựa người…” (Mới hay mình của hôm nào).
Những câu thơ ngập mặn nỗi buồn khi mà bao chuyến đò năm tháng đã luân phiên chở mùa xuân qua bên kia sông. Đò gần cập bến thì Lời thiên thu gọi cũng cất lên tha thiết, đó là điều tất nhiên không thể trì hoãn hay thương lượng và dù cho thế giới này là cõi mộng đi chăng nữa, nhưng dẫu sao trước khi giã từ cũng ân cần chào…
“Xin giã biệt cơn mưa dầm tháng chín/ Buổi đưa người buồn nặng xuống đôi chân/ Em ướt áo cho se lòng lá cỏ/ Đi bên chiều nỗi nhớ lại mênh mông”; “Thôi giã biệt, một dòng trôi vô định/ Nước xa nguồn từ mấy cuộc bể dâu/ Em gội tóc cho thơm đời bèo bọt/ Tình ta neo lặng lẽ dưới chân cầu”; “Thôi giã biệt, chút nắng hồng buổi sớm/ Dốc sương mù đã lạnh nẻo chia tan/ con chim lạc nhớ rừng đau tiếng hót/ Biết về đâu núi cạn với sông mòn…” (Một lần thôi giã biệt).
Những sợi chỉ buồn khâu kín chiêm bao, từng tiếng chày bơ vơ giã mềm thao thức
Những nghẹn ngào giữa khuya, những bùi ngùi mỗi sáng, ô hay:
“Đành giã biệt khúc ru trưa mẹ hát/ Bên võng buồn thơ ấu đã đưa nôi/ Mẹ đâu nữa mà cay hoài khói bếp/Về nơi mô chiều đã bạc lưng trời”; “Thôi giã biệt hoàng hôn đầy bóng khói/ Thuở trao mình cho điếm cỏ cầu sương/ trong hiu quạnh hồn đã đầy tuyết phủ/ Một nỗi nhà. Một nỗi đớn đau chung…” (Một Lần Thôi Giã Biệt).
Dẫu những viên kẹo đường kỷ niệm đã hòa tan vào dòng chảy đắng của cuộc đời và trôi biền biệt theo lưng ngày đã cũ, lúc này trên sàn chứng khoán của tình yêu đã bớt nhiều những phiên giao dịch, đóng băng tài khoản niềm vui và trương mục buồn nảy nở nhanh như dịch cúm mùa Covid 19.
“Bạn đường bụi cát như hoa/ vui chưa ráo tạnh, buồn sa vũng đời/ người về gối mộng trăng chơi/ tôi man nhiên sống giữa thời Cô –Vi/ Sá gì hai chữ từ bi/ Đã cho đã nhận, đã tỳ vết nhau/ Ngùi thương nỗi nhớ đã nhàu/ Mắt môi đã lạnh, tóc màu đã phai/ Ơi chiều, đói một vòng tay/ Trong thăm thẳm gọi, tình dày thảo thơm...” (Viết bên thềm đời).
Tuy nỗi buồn có cường độ mạnh như đường dây cao thế nhưng thơ có nhiệm vụ làm một trạm biến áp nhận về và chuyển tải một dung lượng vừa tầm với mọi người. Từ tâm thế của một người hay chờ đợi một bài thơ của anh tôi đọc và phát hiện: “Thôi em mưa đã dời chân/ nắng chia ngoài bãi còn ngân ngấn chiều/ từ em lạc dấu Nguyên Tiêu/ tháng ba đã ngỏ lời yêu nửa chừng/ thiệt thà sợi tóc ngang lưng/ để trăm cơn gió đã từng rối ren…” (Tháng ba). Ôi, những cặp chữ ngân ngấn, rối ren thật thần sầu!
Pha một chút ngày loãng ra, cô một chút đêm đặc lại, ta có:
“Qua chiều nhặt lấy thời kinh/ Rung lên tạp niệm nguyên hình tượng tôi/ Sỗ sàng chi mấy cơn vui/ Nghe trong hơi thở còn ngùi ngậm đau…” (Còn nghe trong hơi thở)
Hoặc: “Lêu bêu một khối hồn nhàu/ Bên kia bờ giác xanh màu huyền vi”
Hay: “À ơi tôi hát dỗ mình/ nửa trăm năm cõng điêu linh qua đời…” (Hát với đêm nay).
Vẫn biết trước là người miền Tây hiền hòa, lòng người miền Nam chơn chất, sự chơn chất của vùng miền đã thấm vào câu thơ nên những câu thơ cũng thật hiền và dễ thương có khi tựa như chiếc má lúm đồng tiền, vậy mà đôi khi ta phải giật mình khi đọc những câu thơ; từ bất ngờ thấy chiếc má lúm đồng tiền đã hóa thân thành một nụ tầm xuân trong câu ca dao: “Từng hạt nhớ rơi theo ngày đã chạp/trời buồn gì còn se sắt hạt phùn mưa/… Đêm vẫn cứ kéo dài ra từng khoảnh khắc/ Mơ hồ tôi còn chạm tới mắt môi mềm…” (Tháng chạp Tôi & Em & nỗi nhớ).
Cuộc đời càng khắc nghiệt bao nhiêu, cuộc tình dù buồn đến bao nhiêu thì cội thơ Hồ Trung Chính cũng nở ra những đóa thơ hiền và cam chịu với cái nhìn hướng nội, xoay nhìn vào tâm khảm đầy những ngậm ngùi, ơi những ngậm ngùi đã chín như những bước chân thơ từ vùng chiều từng đi lạc qua đêm và xin đừng vội trách thi nhân tại sao hay viết những câu thơ buồn, bởi nghĩ cho cùng những câu thơ buồn ít nhiều gì cũng hong ấm những phôi pha khi mà triền tóc biếc đã tràn qua màu ký ức làm xanh vội một chiều, khi mà những tin vui đã bị chôn vùi kín trong các ngõ ngách của trăm năm chưa một lần chịu bật mầm đứng dậy.
“Từ em bỏ phố lên chùa/ buồn tôi đã chín trên mùa cỏ khâu/ cũng đành nắng vội mưa mau/ chờ nhau mây đã bạc đầu trên non…” (Về nơi nghìn trùng). Hay: “Ta sẽ về biển lớn/ Lòng đã đầy san hô/ thà rằng như sóng vỗ / quanh bãi bờ ta xưa...” (thà rằng như sóng vỗ).
***
Thỉnh thoảng người thơ ở xứ Sóc Trăng ngọn tỏ ngọn lu tìm đến đất Sài Thành hoa lệ (ngọn xanh ngọn đỏ - Hoa cho người giàu và lệ cho người nghèo) làm một chuyến du hành thơ ca, ta lại được dọc nhiều bài thơ viết về Sài Gòn thật mẫn cảm, nhẹ nhàng nhưng thấm sâu: “Gặp nhau, giữa nắng Sài Gòn/ chút vui hiếm muộn vẫn còn tương tri/ Bạn hiền, mấy cuộc phân ly/ biển dâu vô lượng, sá gì tuổi tên.” (Sáng 4/2/2025 cùng NS Nguyễn Phú Yên và NT Nguyễn Hữu Thời)
Hay như trước đó… “Theo bước ta về mây lạc phố/ Sài Gòn ơi, lạ bước chân quen/ áo em trắng muốt chiều Gia Định/ trắng cả mùa xưa ta mang theo/… ta mang theo giữa đời phiêu lãng/ một góc trời Hóc Môn mưa giăng/ nghe gió thổi qua miền hoang tái/ ngỡ bước người qua chiều đô thành / chiều đô thành loanh quanh ngõ tối/… ngân trong lòng phố tiếng rao đêm/ còi xa đã gọi người ly xứ / bỏ lại một mùa trăng thơ trinh/… trăng thơ trinh soi tình Thủ Đức/ hồn như đã tận Bình Hưng Hòa/ Gò Vấp chân qua lòng chưa mỏi/ còn biết chờ ai giữa quán không…”. Bài thơ còn một khổ bốn câu nữa nhưng vì cảm tính riêng của người viết bài này khi gõ những dòng thơ trích dẫn đến địa danh Bình Hưng Hòa… đã nghẹn ngang.
Lòng riêng đã tràn đầy tâm sự mịt mùng như thế nhưng thi nhân cũng không quên nhìn xa ra ngoài thế giới khi mà cuộc chiến tranh Nga – Ukraine diễn tiến thật khốc liệt và phần đau xót thiệt thòi cũng phải luôn luôn nghiêng về bên yếu thế. Xót xa cho thân phận nhược tiểu và người thơ của chúng ta cũng đã từng chia sẻ những đau đớn, ngậm ngùi”
“Trăng cũng cháy dưới mênh mông quầng lửa
Những thành quách đền đài chìm vào ký ức tàn tro
Dòng máu nóng như lượng dầu thô chảy qua rừng bạch dương
Hơn một ngàn ngày đêm Ukraine mất ngủ
Người lính già đi tìm lấy xác con…
Khói bụi vẫn bay vào trong giấc mơ
Niềm tin được thắp lên từ nỗi buồn nhược tiểu”
Thật là đau xót cho người thơ khi phải viết câu: “Dòng máu nóng như lượng dầu thô chảy qua rừng bạch dương”. Câu thơ bi tráng, bi phẫn và đẫm lệ tột cùng.
Và cuối cùng nhà thơ Hồ Trung Chính là người có nhiều bài thơ hay nhất viết về hành giả Minh Tuệ, ngay từ những ngày đầu tiên đến tận hôm nay, theo thiển ý của người viết bài cảm nhận này thì khi một hành giả tu theo hạnh đầu đà Phật giáo xuất hiện, đã mang theo một làn sóng từ trường cực mạnh kéo theo sự chú ý của hằng triệu người trên thế giới , cho đến nay vẫn chưa dứt, điều này tương tự với trong kinh Phật có diễn tả khi đức Phật thành chánh giác và bắt đầu thuyết pháp thì đại địa chấn động sáu cách và trên trời chư thiên rải hoa mừng, các loại hoa mạn đà la hay hoa mạn thù sa… và dù bộ hành âm thầm như thế chứ hành giả Minh Tuệ cũng thuyết pháp theo một cách riêng của Ngài.
Tôi bất giác muốn ví những bài thơ của nhà thơ HTC chính là những cánh hoa mạn đà la hay mạn thù sa kia, sự ví von này có thể khập khiễng nhưng có thể cũng không sai về mặt tinh thần... xin gõ vào đây một số bài tiêu biểu, các bạn có thể đọc chậm rãi và thấy trình độ cảm nghiệm Phật học của nhà thơ rất uyên thâm và chữ dùng trong câu rất đắc, nhà thơ đã khéo léo phân biệt được hạnh tu của hành giả Minh Tuệ là Tiểu Thừa (đúng là như vậy) vì tiểu thừa là xe nhỏ chở được ít người. Nhưng sau khi hành giả này đã chứng ngộ được lậu tận thông (nghĩa là phiền não không còn rỉ chảy) và chứng A La Hán quả thì mới lên đường vân du hoằng pháp lợi sanh và đã truyền cảm hứng tu tập cho rất nhiều người (nên có thể gọi là hành đại thừa).
ẨN TRÚ
(Nhà thơ HTC)
rừng đã khép
nắng
mưa
gầy lưng núi
người về đâu
mây trắng phủ ngang đầu
đêm chợt sáng
ánh từ quang
thoáng hiện
cây lá nghiêng mình
đốn ngộ
với non cao
ẩn trú trì hành
thân gieo kiết hạ
đợi
chuyến về không
trong tịch lặng nhiệm mầu
(viết bên thềm đời)
THEO BƯỚC CHÂN NGƯỜI
Gió đã tắt những cung đường gai nhọn
Người lại đi vạn dặm nẻo vô thường
Trong kiếp nạn đóa từ bi vạn đại
Cõi ta bà tồn tại một làn hương
(viết bên thềm đời)
TỪ BI MỘT ĐÓA
lan xa từng bước chân trần
nghe trong bát nhã gội nhuần tâm kinh
hư vô đã tạc nên hình
về trông núi Sạn đợi bình minh sương
lắng trong một phiến tượng buồn
trầm luân một cõi về nương bóng thiền
phấn y trùm giấc uyên nguyên
đường qua hữu hạn lối huyền nhiệm đưa
trì thân, khổ hạnh, tiểu thừa
từ bi một đóa nở vừa phúc tâm
bước đi ngộ cát bụi trần
dấu xưa Minh Tuệ vô ngần A-di
(viết bên thềm đời)
VỌNG BƯỚC CHÂN NGƯỜI
nghe từ chiếc lá vô minh
bỏ, buông cho cạn thân mình, đến không
dị hình sắc tướng truyền thông
“trò chơi của nghiệp” giữa hồng trần mê
bàn chân chạm tới câu thề
trùng sinh muôn kiếp lối về như lai
(viết bên thềm đời)
Trích dẫn bằng ấy chắc chắn là ít, bạn đọc có thể phát hiện thêm rất nhiều bài hay khác còn trong bộ sưu tập sáng tác của nhà thơ.
KẾT: Tôi đo độ tài hoa của thi nhân Hồ Trung Chính không bằng thước đo luận lý văn học thông thường mà chỉ căn cứ vào dư chấn của cảm xúc chủ quan lưu lại trong lòng tôi sau lúc đọc những bài thơ anh viết. Những lưu luyến níu kéo chừng như tiếc nuối bài thơ sao ngắn quá. Và nhà thơ với khả năng của một đầu bếp thượng thừa luôn biết cách làm sao luôn để lại sự nuối tiếc ấy.
Trong sự chiêm nghiệm già dặn và tư duy sâu đậm, những con chữ không phải ngẫu nhiên được chọn, và con chữ phù sa đã chảy về nuôi những cảm xúc phì nhiêu, ta đã gặt hái được mùa vàng…thơ Hồ Trung Chính. Tôi cầm mùa màng thơ anh trên tay, từng con chữ là từng hạt thóc, từng câu thơ là từng bông lúa, mỗi bài thơ là một bát cơm. Tôi bưng bát cơm đầy là một trong những bài thơ của thi nhân trên tay và hít hà mùi thơm của cơm dâng lên ngào ngạt, những con chữ hiền hòa như những hạt cơm dẻo, mịn và bất giác tôi lại chạnh lòng nghĩ đến câu ca dao xưa:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần!”
Xin chúc lành anh, người thơ Hồ Trung Chính và tôi một cụm lục bình đang trôi ở một nơi rất xa quê hương đang ngồi nhớ Cù Lao Dung và những dòng sông quê hương biết chừng nào.
Từng búp ngày đã nõn, từng lá buồn đã rụng, trong ngược xuôi tiềm thức sáng suốt pha lẫn u mê.
Người thơ đã rót mời tất cả chúng ta và tôi đã uống bao nhiêu cốc thơ rồi mà nghe dư lượng buồn còn nguyên đâu đây trong những dòng cảm nhận thô sơ này.
Houston, ngày 11 tháng 3 năm 2025
Bích Thượng Thổ/ Đặng Toản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét