TỰ KHÚC HỒN THƠ Hồ Trung Chính - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

TỰ KHÚC HỒN THƠ Hồ Trung Chính

(Đọc tập “Thơ trong ngăn kéo” của Hồ Trung Chính


          Phổ khắp chủ đề, đa thể thơ; tường minh cuộc thể, ám mị len lỏi cõi hư vô; biện chứng giữa xác và hồn... Trục dọc tập thơ là sự dịch chuyển, tịnh tiến ý thức và lim cận Chân - Thiện - Mỹ, cái trác tuyệt ấy chưa bao giờ mất đi trong minh triết cuộc đời.

          Thơ nhen nhóm lên ngôi, vần thơ thắp lửa, ủ ấm hương men trong đêm đời. Đó là khúc ru đêm mà tập “Thơ trong ngăn kéo” của Hồ Trung Chính mang lại:

          Hồn đầy bóng tối luốc lem

          Xót con đom đóm thắp đèn khêu đêm...

          (Tự khúc đêm).

          Có một chút gì đó pha Kiều, dù một phần triệu âm hưởng, hạt muối giữa đại dương, giọt máu đào pha xuống dòng sông chảy hay chỉ là ánh đom đóm thấu thị mắt người... nhưng mà “xót”! Một tình/ xúc cảm bị/ được nhận từ khách quan để chủ thể - hồn thơ thành ký tự, hoá thân, ẩn dụ vào thơ.

          1. Sự biện chứng của một hồn thơ.

          Sự biện chứng hay lặp vòng trôn của ký ức, vừa muốn kéo lại vừa muốn buông lơi: “Đành mất nhau rồi tháng năm ơi/ Cuồng phong đã dậy một khung trời/ Áo xưa phai nắng nhàu trong gió/ Bến lở còn đau con sóng trôi...” (Thất hẹn với tháng năm). Biết đã đành song vẫn nhói tiếc; đã xa xưa, nhàu cũ mà vẫn gọi hoài. Đó là một tâm thế, tâm thức luôn hằng trong chúng ta. “Vẫn ngày đi rất vội/ Vẫn lối về mây bay/ Chiều không nhau đứng đợi/ Hoàng hôn ngoài đang vây... (Đi qua chiều không nhau).

          Sự biện chứng hay luận bàn hồng trần với bạn, với tri âm:

          Ta thấy em giữa mang mang tiền kiếp

          Từng hạt mưa ân sủng rớt bên đời

          Ta sương giá đọng mềm trên lá cỏ

          Em chan vào hạt nắng tinh khôi

          (Còn thấy một tri âm).

          Thực ra, là sự biện chứng của nhập thể, giao hoà với thiên nhiên, về làm một - nhất như - vô vi. Tất cả bản thể khác nhau song đều giống nhau ở nhất thể.

          Một sự biện luận khác: “Xem hí kịch/ phân đoạn/ tấn bi hài/ thanh âm lạc điệu.../ Bài khoa ngôn/ âm vang/ tuồng một kiểu/ diễn tấu liên hồi.../ Ánh sáng nhiễu/ lộ diện/ tấm màn hôi/ pha màu huyết dụ/ Đau khán phòng/ dư âm/ lời tự thú/ lem luốc tấm gương soi” (Phải đâu là hí kịch). Bài thơ là lối ẩn dụ - cách nói xa thâm thuý về “tuồng đời”.

          2. Chất trữ tình phần đa trao em.

          Đương nhiên, như đã nói từ trên, thơ Hồ Trung Chính phổ khắp các chủ đề song với riêng tình dành cho em là phần nhiều. Ta sẽ bắt gặp trực tiếp điều này ngay trên các nhan đề bài thơ: “Em và những bài thơ không năm tháng”, “Bài cho người về”, “Xin em hãy quay về”, “Trả hết cho em”, “Em có về qua ô cấp”. Hay trong bài: “Tình khúc cho em”, tác giả cùng em đi qua ngày ước hẹn, dự khuyết mùa trăng, cuối dòng và cả ngày sắp lụn:

          Thôi em ngày sắp lụn

          Ta về với cội nguồn

          Thôi em ngày mai ấy

           Còn xanh mầm yêu thương”.

          Và:

          Hẹn nhau từ kiếp khác

          Lạc vào chốn phù tình

          Em ngút ngàn thơ dại

          Tôi dãi dầm điêu linh

          (Trong tận cùng giấc mơ”.

          Là hai đối cực, là cặp đôi song hành, là hai chủ thể mà là chỉ một, luôn: “xanh mầm yêu thương”.

          Trong bài “Chờ nhau”, nhà thơ có một nỗi chờ đến như vô tận, vô biên nếu không nói là muôn thuở: “Chờ nhau/ năm tháng muôn trùng/ người xa/ hồn rụng/ vời trông lối về” ... “Chờ nhau/ nát một câu Kiều/ Thuở chăn chiều lạnh chia đều xác thân”. Câu thơ không còn là ngôn ngữ thơ thông thường, tự thân nội dung đã hoá thành cầu thề nguyện; thành tâm niệm của hồn thơ, người thơ trao gửi bao ân tình.

          3. Câu thơ vương vương xứ sở.

          Sau những câu thơ biện chứng để tìm ra chân lý cho mình; sau sự trữ tình tha thiết trao về “nàng thơ”, “Thơ trong ngăn kéo” vương vương chạm khắc các miền quê. “Chu du” vào nội tâm là thơ sâu sắc; “du sơn ngoạn thuỷ” là thơ phóng khoáng. Tài hoa của tập thơ là trung hoà, kết hợp được hai yếu tố đó, nói cách khác là đào sâu vào không thời gian của đa chiều. Từ trong những gốc toạ độ ấy, để người viết bật lên những ký tự, hình ảnh lay động: Một Huế tím trầm tư, một Bến Tre sóng đằm say mộng; một Cần Thơ lung linh bến đợi... Hay U Minh, sông Bé, sông Cái... mênh loang vời trăng nước, vời vợi câu hò tình gửi gắm thênh thênh. Và rồi, “một thoáng Sài Gòn” chạm phải:

          Đi suốt mùa xanh biếc lá

          Lòng tôi đã chạm Sài Gòn

          Hạ miết vàng thêm phố xá

          Chênh vênh một góc trời buồn...

          Là niềm thương mến trên chính quê hương của mình:

          Nỗi nhớ dềnh lên mắt phố

          Về theo khúc thức ngũ âm

          Chơi vơi lời ru của gió

          Võng buồn trên Sóc con Trăng

          (Ngày về trên Sóc con Trăng)

          ...

          4. Gene chữ “Thơ trong ngắn kéo” là chữ “về”.

          Về. Cuộc đi đến đích quay lại. Về. Tìm lại cội nguồn. Về - hồi quy. Về là động từ; kết từ... Hồ Trung Chính đã ý giác điều đó. Riêng với những đề bài đã nói rõ: “Lạc lối về”, “Theo mưa về Cần Thơ”, “Về”, “Bài cho người về”, “Về bên vàm sông cái lớn”, “Xin em hãy quay về” ... “Từ ấy/ Tôi về/ Vàng chân lối cỏ/ Nỗi lòng lên xanh/ Soi vào chiếc bóng/ Thấy mình trăm năm” (Lặng lẽ tôi về). Chất nhạc thoáng qua trong lời thơ, âm hưởng gần xa như nhạc Trinh. Đặc biệt, trong sâu xa, “Về” đồng nghĩa với “Đi”.

          Về với mùa xanh khúc hát

          Mênh mông chiều ngát hương dừa

          Nghe gió ru từng thớ đất

          Bồi hồi đi giữa cơn mơ

          (Về lại Bến Tre).

          Bước chân về là mỗi nhịp tim bồi hồi, mỗi thấy nỗi buồn lai vãng, day dứt:

          Tim tím một trời nắng lạ

          Về qua phố biển mây đưa

          Chợt thấy nỗi buồn lai vãng

          Hằn lên mấy dấu chân xưa

          (Em có về qua Ô Cấp).

          ***

          Để khép bài viết cực nhỏ này, tôi xin mượn câu thơ sau để kết:

          Khi nỗi buồn cọ xát với niềm đau

          những ký ức va vào đêm dị mộng

          giữa hoang mù tuyệt vọng

          thơ lại rung lên

          từng góc tôi khêu đèn

          (Sứ mệnh thơ)

          Vâng, là sứ mệnh. “Sứ mệnh bắt anh ta không thể nào khác, phải thế loài thi sĩ ơi!” Khi không thể gì khác nữa, giữa tuyệt mù thì thơ là ngọn đèn, thơ sáng lên góc khuất; rạng ngời đêm đen và mở ra một thế giới mới... Đấy là tự khúc đêm của hồn thơ Hồ Trung Chính.

Đặng Ngọc Tam Giang

.................................

* Gene: gene chữ, chữ của Hoàng Kim Ngọc, chị định nghĩa: “Gene chữ là những chữ quen thuộc mang phong cách tác giả, phong cách văn bản được thể hiện qua lần xuất hiện trong trường từ vựng của nhà thơ hoặc của một thể loại văn bản”.


Không có nhận xét nào:

Trang