TRĂNG HUYỀN CỬA LÁC - Đặng Ngọc Tam Giang - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

TRĂNG HUYỀN CỬA LÁC - Đặng Ngọc Tam Giang

        Trăng...

          Trong khái niệm mơ hồ của tôi thì trăng không chỉ là danh từ, trăng còn là tính trừ, động từ và đặc biệt là mĩ từ (ý là từ chỉ cái đẹp). Do là khái niệm mơ hồ nên xin bạn đừng bắt bẻ! “Từ trăng thôi là nguyệt” thì Trịnh cũng đã “pha lê” tâm hồn mình cho những nốt thăng hoa. Trăng ứa máu và rao bán trăng là thơ Hàn. Trăng lạnh, trăng đau, trăng lẻ đôi... của Nguyễn Du hay trăng từ Tô Đông Pha, trăng từ Lý Bạch... trăng “rót” xuống dân gian bao nỗi niềm; bao hồn say.

          Riêng tôi, tôi cũng có một mảnh trăng ở đập cửa Lác. Đập cửa Lác là con đường nối hai huyện Phong Điền và Quảng Điền thuộc Thừa Thiên Huế (theo tên gọi trước đây) ở cuối sông Ô Lâu. Sông Ô Lâu đổ qua phá Tam Giang bằng ba nhánh với ba cửa: cửa Tả, cửa Trung và cửa Hữu. Chính ba nhánh sông cuối dòng này đã tạo khai tên phá: Tam Giang, Tam Giang huyền thoại và mênh mông . 

          Mảnh trăng của tôi kia không tròn vành vạnh, không ngọc ngà rằm giêng hay thuở mười sáu trung thu. Trăng tôi là trăng mồng tám, trăng thượng huyền. Trăng nửa vầng, trăng ai xẻ làm đôi, trăng như chiếc thuyền nan trôi. Trôi, không phải trôi mà ai đó đang bơi, đang chèo, đang chống và tịnh tiến xuống dòng Ô Lâu. Dòng sông của sự trong xanh, hai biền lúa mượt, giữa dòng vạn chài lanh canh... Tôi và em tình cờ quen nhau vào một hôm trăng thanh nửa vầng nơi cung đường cửa Lác ấy.

          Tóc em thơm hương lúa đòng, mắt em xanh màu nước sông, da em trắng cát pha triền độn (động), lời em dạt dào như sóng dịu... Tâm hồn tôi bị pha loãng bởi ánh trăng tan, sóng sánh lân tinh bởi những hạt Ti-tan trong chất phù sa sông bể. Tôi khát khao nối đôi bờ Phong - Quảng bằng con đường mới và những cây cầu bắt qua nơi cuối sông đầu phá. Tôi sẽ đến thăm em, sẽ tìm em và sẽ... Bao ước mộng của tình yêu, bao mơ say tình ái gieo vào trăng nghiêng nghiêng những câu thề để rồi kẻ ra đi, người ở lại với bao mong chờ, thương nhớ và trách khứ. Dẫu biết “cuộc đi định nghĩ ngày về”, buồn dong chờ bình minh nặng thuyền tôm cá. 

          Tôi đi và vần vũ mãi chưa về:

          “Người trách ta không về Cửa Lác
          để trăng treo mái nhớ thượng huyền
          đò Ô Lâu xuôi dòng đã đến
          tiếng lanh canh khai một điệu thuyền…”

          Tôi vào tận thành phố Gia Lai lập nghiệp, tôi tha hương trên con đường cơm áo; tôi gói ghém bao thương yêu về một miền quê. Nơi đó có em. Nơi con sông dài gần trăm cây số chảy về hạ nguồn. Trên dặm trình sông đi đã uốn quanh và mang bao lưu luyến. Sông qua Phước Tích nghe thì thầm lời của gốm, qua rào Vân Trình giăng mắc lưới bủa vây; sông trích nước cho đồng lúa Phong Chương lên men rượu cườm, cho chợ Ưu Điềm con giét quẩy đuôi... Tôi mong mình được như sông chảy dài theo năm tháng để “góp mật” về xây tổ ấp cùng em. Bao lá thư tay tôi đã gửi và đã nhận. Gương mặt người bưu tá cũng đến quen.

          Đêm xa hương, tôi nằm nghe dòng sông cuộn chảy, nghe tiếng sóng Tam Giang, nghe sâu vào lời em thở qua những cuộc gọi nhớ thương. Cửa Lác lại hiện về, cửa Lác thân thiện và gần gũi; gần gũi như cái tên được lấy từ loài cỏ lác mọc từ đất quê lem lấm bùn lầy. Cửa Lác vọng sóng Tam Giang những ca dao huyền thoại, những đơm đón sáo nò, cọc báy, dàn chuôm... và cả con hến, con trìa (ngao) ngậm thinh trước sự đời nênh nổi, lặng im minh triết trần gian. 

          Có con tàu nhổ neo, con đò rời bến, có thuyền băng qua phá chòng chành, có gương mặt ai trên nhà chồ cười thương dưới ánh trăng mênh cho tôi nhắn nhủ mấy lời bắc sang: 

          “Phía Tam Giang nò nò sáo sáo
          sóng lân tinh vỗ dạt vỗ dào
          ai xây cầu… bắc tình Cửa Lác
          nối hai miền Phong - Quảng nao nao”.

          Rồi tháng năm...

          Và, tôi trở về.

          Cửa Lác đã khang trang, mở rộng. Đường và cầu bê-tông không còn là con đường - đập bằng đất và lót trên hai mảnh đoanh (đan). Ba cây cầu xây và hệ thống ngăn dòng giữ nước sông Ô Lâu để tưới tiêu biền ruộng. Lúa tháng ba nghe sấm và dậy đòng. Tiếng đò lạch cạch chay quay quắt, chạy tìm những phao lừ (lờ) đơm để kéo thu hoạch vội vã thu mua thủy sản, ngao trìa. Tiếng xe máy phăng phăng qua đập cửa Lác, tiếng bán buôn lao xao. Mặt trời chưa tới ngọ dưng bóng đã in dưới chân tôi. Tôi đạp lên hình hài chính mình mà nghe nhói đau, tan vỡ. Tôi tìm gì ở bóng dưới chân tôi?

          Tối hôm đó, sau mười năm, tôi mới được đi bộ lại qua đường cửa Lác. Gió Tam Giang thổi khuya lành lạnh. Xa là những ngọn đèn điện của những làng ven phá, ven sông đang tắt dần và để lại đêm khơi với những vì sao trên không gian cao. Đám mây dạt trôi, hé lên một nửa vầng trăng từ phá. Tôi nhói tim và ứa lên những lần trăng thượng huyền mồng tám... còn bây chừ trăng của hạ huyền không em:

          “Ta trở về tìm người Cửa Lác
          em đi xa trăng hóa hạ huyền
          tình Ô Lâu tan dòng đã khác
          giờ xanh xao… đứng hát một mình.”

          Tôi bất giác “hát vu vơ mấy câu nhạc tình”. Hát cho trăng lên. Hát cho bớt mênh mông đêm. Hát cho sông dài mãi ra. Hát cho em và tôi với cuộc tình trăng không vẹn. Nửa vầng đêm nay sao lẻ loi, lẻ loi đến thế? Trăng xưa và bây giờ có thay đổi? Trăng vẫn trăng ấy mà... cửa Lác ơi!

          Đ.V.S



 

Không có nhận xét nào:

Trang