HẠT DƯƠNG THƯƠNG NHỚ
Tản văn
Rồi có một
ngày, một ngày tôi sẽ quên, quên thôi chứ không có nghĩa là không nhớ. Mấy hôm
rày “vũng nhớ” tôi cứ quay quắt; quay quắt như có điều gì đó thôi thúc, giục
giã, hối hả, nao nao... Nó không phải vì mùa phượng vĩ rực lửa cùng tiếng ve
rang; không phải se se thu của chiều gió heo may; không phải đan thanh xuân thì
với triền hoa vàng lay trước gió; càng không phải đêm đông cần lắm sự ấm
nồng... Nó quật quay, quay quật vì nhớ về mùa hạt dương xưa.
Quê em gọi cây
dương nghĩa là gọi tên cây dương tùng, dương liễu hay phi lao. Dương là loại
cây thân gỗ, thân cao hơn đầu người, cao hơn nóc nhà, cao hơn cả tháp cao
(30m). Rễ dương bám vào đất rất sâu và vững chắc, chắc như muốn giữ bãi gìn bờ
chống xói mòn sạt lở. Đi dọc miền biển Việt Nam với hơn 3.444 cây số, nơi nào
có cát là nơi ấy có dương “vi vu” reo gió. Tiếng “vi vu” nghe từ cây dương thật
buồn, buồn nhất là buổi chiều và đặc biệt là với ai có tâm trạng nhớ thương. Âm
thanh buồn đó là hợp âm từ vạn vạn lá hình kim. Lá có màu xanh đậm. Màu lá khi
sang thu thành đỏ; đôi khi điểm xuyết trắng trắng...
Mùa xuân, mùa
của khởi nguyên lại ban sơ, buổi đầu; mùa khởi thủy vòng tuần hoàn đất trời này
chăng? Hoa dương cũng bắt đầu khoe sắc từ đó. Hoa không dám so với mai đào mận,
không bì với cúc vàng tươi, không sánh được lay ơn, thược dược, không nổi tiếng
trinh bạch như huệ trắng, thoát tục như sen... Hoa dương lặng lẽ “bên đời”. Hoa
mọc ra từ ngọn cây, hoa như lá chuyển vàng.
Kết tinh của
hoa là quả, là hạt; là gen của sự di truyền. Kết tinh cuộc tình là gì nhỉ? Ở
trong câu hỏi “kết tinh cuộc tình” đó có tôi và em. Hai tâm hồn còn bỏ ngỏ. Hai
tấc lòng từng luyến lưu. Giấc mơ nào có lần hẹn gặp. Ngôi sao nào từng thương
hay từ con sóng biển trùng khơi đã triệu triệu lần dạt dào thổn thức tim... và,
giờ có ai còn nhớ ai không!?
***
Tuổi mười bốn,
mười ba, em mang bị đệm đi nhặt hạt dương về nhóm lửa. Con đường, bãi cát Hà Úc
có lẽ không thể đếm xuể bao dấu chân em, người con gái hay mặc áo hoa vàng, cột
tóc bằng sợi len đan con tít. Em bước đi nhẹ như bồ câu đậu xuống mặt đất. Em
sợ con nhện giăng tơ bỏ tổ, sợ tiếng chim rời cây, sợ tiếng gà trưa không tục
tác...
Theo em nhặt
hạt dương, có khi chỉ nhặt được thẩn thờ đâu đó tiếng cười, tiếng nói để
rồi bỏ vào bị mang đi. Trong tâm thức tôi, bị đệm luôn đầy hạt dương và sự nhen
nhóm “ngọn lửa” quê nhà. Ngọn lửa ấm ngày đông, ngọn lửa nồng ngày hạ và giữ
nhiệt gia đình.
Rồi từng ngày
lớn lên, mùa hè tôi lại về quê ngoại. Cô gái hàng xóm lại tặng tôi lời chào với
nụ cười răng khểnh. Mười lăm tuổi của trăng tròn, đôi má đã ửng hồng và lúm
đồng tiền đã biết làm duyên. Hạt dương đã biết xếp hình trên bãi biển. Hình
cánh hải âu bay, hình con cá lội, hình cánh buồm dong... và có hình tròn biến
dạng... thành... hình trái tim... vội xóa. Con còng biển vẫn giương đôi mắt
nhìn trời, nhìn biển, nhìn bờ dương bãi cát. Trong ảnh hình đôi mắt chúng có
còn lưu giữ chúng tôi không?
- Đừng làm con
còng sợ! - Em nói thì thầm.
- Tại sao? -
Tôi ngu ngốc hỏi.
Em chẳng trả
lời. Em nhìn xa khơi. Cuối tầm mắt là biển trời gặp nhau. Mây chung bay hình và
ảnh. Sự lang thang vô định là mãi mãi hay chỉ là thoáng chốc rồi tan. Dương vẫn
reo ca trên ngọn, sóng dạt dào vui và có hạt dương nào đó vừa rụng xuống theo
phương hướng trọng lực. Rụng vào tay ai, rụng xuống để tìm nguồn mọc lên...
Mười tám “tôi
yêu là bởi tôi yêu”. Khi yêu ai nói chi nhiều. Em bên tôi một chiều cuối xuân
nắng nhưng không khí miền biển Hà Úc rất lạnh. Em gọi đó là “Nắng lạnh”. Nắng
lạnh thành gam trầm, nốt son (sol); khoảng lặng cho thơ; đường nét ẩn giấu
trong bức tranh... của em và tôi sau này.
- Anh có nghe
tiếng chuông rung không? - Em quay sang nhìn tôi và hỏi.
- Không, anh
không nghe tiếng chuông. Anh chỉ nghe em nói! - Tôi trả lời và nhìn em.
Khi sóng mắt
trong nhau thì sự khát khao sẽ vô bờ. Biển cách trở không là gì; núi che lấp
không là cả... Nhưng sao như có tiếng thở dài. Em cho tôi biết rằng giữa chúng
tôi khác biệt nhau về tôn giáo. Em lớn lên trong tiếng cầu kinh, lời Thánh dạy.
Em cùng bao bạn bè suốt thời tuổi thơ mang khăn quàng xanh đi lễ. Tôi chỉ là
những ngày hè trở lại với quê ngoại... miên man.
***
Và rồi một
hôm... lại về miền biển, về với quê dương thương nhớ, miền thùy dương vẫn cát
trắng cây xanh. Làng Hà Úc trước mặt vẫn là phá đầm giăng mắc nò sáo, ngư dân
buông lưới thả chài... Sau lưng làng là biển vạn trùng khơi. Tiếng chuông nhà
thờ rung nhắc thời gian minh triết. Quán cà phê dáng “pass” Wifi và hỗ trợ cài
Mã QR, Hue-S... nhạc tha thiết và võng treo để nằm...
Ly cà phê đen
thấm chút nỗi tình si. Kỷ niệm ùa về, chìm trong “vũng nhớ” và đắm đuối, cả yếu
đuối. Tôi nghe mình nhói tim. Hai mươi năm, hai mươi năm nếu đem hạt dương gieo
trồng. Ắt cây đã trưởng thành và có lẽ đã chắn gió mưa sa, đã giữ gìn bờ bãi,
đã réo gọi... đã bao mùa rụng hạt, rụng xuống cho ai đó nhặt về.
Ngày chia tay,
tôi rời quê với bao gói ghém. Trong ba lô lên đường có gói hạt dương em trao.
- Em chỉ có
quà là gói hạt dương này thôi, cố mà học cho giỏi rồi... - Em rưng rưng đôi mắt
biết nói nhìn thương.
Tịnh tiến thân
vào nam học và lập nghiệp luôn ở đó. Bao thư gửi, bấy hồi âm, bao cuộc gọi, tôi
vẫn dấm dứ lần khất chưa về. Cho đến ngày:
“thư buồn
chẳng phải thiếu tem
mà cánh chim sáo
muốn
quên… lối về”.
Mở gói hạt
dương ra xem, từng hạt sẫm màu, màu nâu nâu buồn. Tôi nhận ra lớp lớp thời
gian, lớp lớp đời khô khốc bao bọc nên hạt dương...
Tôi cúi xuống
đào cát và gieo hạt dương khô ấy xuống bãi gần làng. Lòng thấy vấn vương thương
lạ. Tôi gửi lại hạt dương quê em, ước mơ một sự nảy mầm.
Đ.N.T.G
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét