CUỐI DÒNG THƯƠNG - Đặng Ngọc Tam Giang - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2025

CUỐI DÒNG THƯƠNG - Đặng Ngọc Tam Giang


         Tôi xin bật mí ngay là tôi định viết cuối dòng Hương song khi gõ phím thì tay nó vấp thêm chữ tê (T) nên thành “Cuối dòng thương”.

          Tôi từng mơ rằng: có lần tôi vớt đặng một bức thư lá; bức thư của người con gái tận thượng nguồn váy diễm. Người con gái trong truyền thuyết với chiếc Acưr* bềnh bồng trôi. Thư lá sẽ kể cho tôi nghe bao đồi nương, bao khe suối. Thư cùng dòng nước qua mấy hợp lưu, qua mấy thác ghềnh. Thư thấy con cá quẫy đuôi bên suối, con chim vụt bay in bóng trời mây; thấy hòn đá cuội mài nhẵn đến mộng mị thời gian. Thư lắng nghe tiếng chim kêu, vượng hú; nghe nhịp phách đại ngàn, nghe tiếng hò loang, nghe tiếng chuông chiều ngân vọng. Thư chói chang cùng ánh mặt trời, thư loãng tan vời vợi ánh trăng ở ngã ba và cả vương vấn vào mùi hương. Hương của loài cỏ thơm, loài thảo mộc: thạch xương bồ, loài cây mang trong mình huyền thoại, huyền thoại khai sinh tên dòng sông.

          Cuối dòng... ừ, thì cuối dòng song bạn đừng “kêu” tôi chấm hết, đừng kêu tôi dừng lại hoặc đại loại là gì đó với ý định từ bỏ. Tôi lạc quan với ý niệm: Cánh cửa này đóng thì sẽ có cánh cửa khác mở ra; mặt trời lặn nơi này nhưng là bình minh chốn khác. 

          Cuối dòng cụ thể của tôi ở đây là cuối dòng Hương. Nơi con sông bắt đầu rời xa bờ, xa bến. Hai triền trù mật những nếp thương, những vườn cây sai trái, những ngọn lá trúc che ngang gương mặt người lùi lại. Cồn dâu chua, cồn ắp bắp lay, cồn nhiều hến khuấy nước đục lờ, lờ đờ nước đến ví tựa lòng tương tư ở lại. 

          Cuối dòng, nơi có chiếc cầu với tên thơ mộng: Thảo Long, cây cầu có hệ thống ngăn mặn - giữ ngọt (Công trình gồm cống ngăn mặn được thiết kế với khẩu độ thông nước 480,5 m, gồm 15 khoang, mỗi khoang rộng 31,5 m; cầu thiết kế có tải trọng thiết kế H30-XB80, mặt cầu rộng 10 m; cửa van trục dưới bằng thép CT3, việc đóng mở cửa van được thực hiện bằng hệ thống lanh thủy lực...). Nói bóng bẩy tí thì cầu kia là sự níu kéo ngọt ngào, chưa muốn lòng tan với chát mặn: “Khi yêu, em bảo Thảo Long - bờ ngăn mặn/ Chắn lũ triều xâm thực để biền xanh/ Hứng phù sa cho cây trái ngọt lành/ Ươm vườn mộng giàu hoa nhiều các bướm…”.

          Cuối dòng Hương là một cái “kết đẹp”, sông chưa vội đổ ra biển như các dòng sông thông thường khác, sông còn lưỡng lự hòa mình vào phá Tam Giang để chành chao, để tạo ra một ngã tư sông nước ngợp vợi và ba mặt: biển, phá, sông; hình thành một “miền nước lợ” đặc sắc. Phía bờ nam, đối diện với cửa Thuận An là làng Tân Mỹ (thuộc thị trấn Thuận An), nơi có xóm Đạo, tiếng chuông ngân với từng chiều như thức linh hồn về khái niệm thời gian trôi, trôi như con nước ngược - xuôi lớn - ròng vậy. Phía bờ bắc sông khi kết thúc là xóm Bàu Hạ (thuộc làng Thuận Hòa, xã Hương Phong, thành phố Huế), xóm quạnh ngang để trở thành phía tây của ngã tư sóng nước, cung đường nội đê và con đường quốc phòng kết nối với Cồn Tè, Cồn Tè, Rú Chá ở gần đó của làng như là một bình phong trước cửa Thuận. Phía bên kia là hai “sống lưng”, hai cánh cửa đổ ra biển là làng Thai Dương bị chia đôi do trong quá trình di dời, luân chuyển của biển. Tên Thai Dương của làng hàm chứa trong đó bao truyền thuyết và dã sử. Bằng chứng là có miếu thờ “người phụ nữ mang thai” đã khai sinh tên làng ở gần trước cửa biển và nơi bãi trước mặt gần làng.

          Cuối dòng là một vùng bãi bồi rộng dài đến mấy dặm. Bãi bồi thoai thoải cả bốn phía, nhất là bãi ở phía gần Cồn Tè, bãi rộng và nhiều cát vàng nhất. Nước triều lên, bãi chìm dưới nước sóng sánh, lân tinh phản ánh mặt trời. Nước cạn ròng, bãi nhô lên những mô, những gò cho chim xuống đậu, có khi ngư dân còn thấy cả bầy rùa nổi lên trên bãi “rì rà” tịnh tiến đội nhà đi chơi. Bãi là nơi thả lưới, buông câu; từng là “địa chỉ” soi đèn măng-xông bắt cua cá, sáo nò đơm đón. Trên khuôn dạng nghề chung ở bất kỳ bãi sông nào cũng thế, bãi cuối sông ở đây có một nghề khá đặc biệt: “nghề ăn tới làm lui”. Đó là nghề cào trìa (ngao) mới phát triển cùng với thu hoạch khá hấp dẫn của mấy năm gần đây.

          Cuối sông là một vùng nước mênh mông, nông sâu khó dò và luôn cuộn chảy. Hết bờ bãi là lòng sông sâu - lạch (người quê tôi hay gọi lẹc), nơi cho những tàu thuyền di chuyển. Người cầm lái phải thạo đường (thủy) nếu không dễ mắc cạn. Nước cuối dòng là vùng nước luôn thay đổi. Có lẽ dòng chảy tác động với cửa biển, con sông và cả hai luồng phá nên chưa bao giờ nước ở nơi cuối dòng này đứng yên. Người ở cuối dòng luôn có những tâm thức trù bị. “Người ở nơi sắp hết ngọt ngào/ Thường dự phòng những gì đắng mặn/ Trôi như sông trôi/ Một lần thôi - đi thằng/ Sự vĩnh hằng làm gì có... băn khoăn”.

          Cuối dòng Hương là nơi giao lưu con nước với phá và rồi đổ ra cửa Thuận An. Những quá khứ, tôi tìm về hỏi người lớn tuổi, tìm về lịch sử, tìm những di chỉ vào những tạc niệm phong rêu còn tương lai, tôi thấy được từ những dự báo, dự án và cả những dự đoán. Cửa Thuận An, nơi tận cuối dòng không còn chỉ là những cọc báy, phao hải đăng cắm vào đất, thả trên nước để phân dòng mà có cả những cọc trụ bê-tông cốt thép đường kính ba, bốn mét và chiều cao, cao ngang tầm đọt cây dương đang được dựng lên... Đó là những trụ cầu vượt cửa Thuận An, cầu vượt cửa biển dài nhất miền Trung đang thi công; đang được đóng cọc khoan nhồi, dự kiến hoàn thành năm 2025, kết nối với tuyến đường bộ ven biển quốc gia.

          Cuối dòng, nơi có nhà tôi ở đó, nơi xóm nhỏ Bàu Hạ. Một gã ngư dân cũng lắm khi mơ mộng. Tôi mơ ánh bình minh, ánh mặt trời ló lên từ phía phá Tam Giang, rọi vào xóm lung linh. Chiều, ngọn gió nồm mát rượi từ biển, từ phá thổi vào; trời 37 độ vẫn không cần quạt. Tối ngắm trăng sao lân dòng, nghe con cá quẫy, nghe ngọn sóng chành chao. Khuya nghe tiếng lanh canh chài lưới... Tất cả không gian, thời gian rất bình dị, mộc mạc, yên bình. 

          Cuối dòng chứng kiến những sạt lở, những ngày lũ bão, phía trọng tâm của mưa sa gió tạt; là rốn lũ và địa điểm chia cắt nguy hiểm nhất. Tiếng khóc tìm người thân sau bão năm 1985 vẫn còn âm ĩ trong tim; những rợn người trong tiếng kêu chới với con nước lũ 1999; những xác người ruỗng trôi cho cá rỉa ăn thời Mậu Thân; những tiếng thét gào của các cô gái bị hãm hiếp đến chết hoặc điên cả đời trong thời “tàu đen” lính giặc gây ra; những mảnh bom, đạn lạc bay đi... Tôi xót xa ông ngoại tôi đã qua đời vì viên đạn vô tình đã cứa đứt chân ông. Tôi còn có những dòng ký ức rất nhiều nhưng thôi... Hiện tại, vẫn còn tiếng “đêm rì rầm” những con đò, tàu “to bự” ngoáy-đào-hút cát rồi chở đi; các ô hộc tự phát, tự canh ngày càng to lên che khuất, lấn chiếm phần tự nhiên. Cuối dòng ngày càng hẹp lại và càng sâu hoắm.

          Cuối dòng, cảm thức của dữ dội - bình, lặng im - dào dạt; đi - ở; hội nhập - hòa tan... 

          Cuối dòng nhưng hết hay chưa? Cuối là để bắt đầu? Cuối dòng Hương, cuối dòng thương, tôi thương người con gái năm xưa với giấc mộng lứa đôi không thành. Nàng lên thượng nguồn, tôi ở hạ. Tôi sẽ gửi yêu thương theo gió, theo mây để bay đi, bay đi; bay ngược non nước mà thì thầm, trao gửi nỗi niềm; gieo hạt nhớ thương trong cuộc luân hoán, tuần hoàn của vạn dặm tình nhân gian... 

         Cuối dòng, tôi còn chờ một bức thư lá, một dòng mãi chảy... nàng gửi không!?

Đ.N.T.G

.....................................................................................................................................

- Acưr*: là loại thuyền trong truyền thuyết của dân tộc người Pa Cô.




Không có nhận xét nào:

Trang