NỐT TRẦM
XAO XUYẾN hay  HƯƠNG TRẦM TOẢ LAN?
(Đọc
tập thơ Lục bát trầm của Mạc Minh)
          
Giữa muôn vàn âm thanh; giữa “muôn màu” thi ca, có một nhà thơ đương đại chọn cho mình một âm thanh: trầm lắng; chọn một hình thức thơ truyền thống: Lục bát. Đó là nhà thơ Mạc Minh với thi phẩm Lục bát trầm.
          Xét
ở góc độ âm nhạc, âm trầm đóng một vai trò quan trọng bởi không bổng thì trầm;
một trong hai trạng thái ấy mà làm nên “tiếng đời”. Có lẽ từ “trầm” trong tập
thơ này, nhà thơ đã chọn phần sâu lắng, phần tịnh của cuộc đời để thể hiện. Bài
thơ cùng tên nhan để tập sách, nhà thơ viết: “Một cung người một đời thơ/
Đêm ngày đau đáu vật vờ hồ như”. “Đau đáu” là luôn nghĩ về, chiêm nghiệm
đời và gieo hồn vào thơ. Sự đau đáu ấy thể hiện qua bốn phần của tập sách: Phần
A là Nhân; phần B là Tình, Phần C là Hạnh và phần cuối là Tâm.
          Thơ
Mạc Minh chân thành, tha thiết, sâu lắng… và ẩn dụ nhiều nỗi lòng tha
nhân.           Chân thành với cuộc sống,
với lòng mình, với tình người. Tha thiết với quê hương đất nước, với tình yêu.
Sâu lắng ở tâm hồn và trong chiều suy nghĩ, mang màu sắc triết lý nhân sinh
quan. Ẩn dụ nhiều hình ảnh, ý tưởng để khai phá thế giới bên ngoài và thế giới
nội tâm. 
          ***
          1.
Chân thành với cuộc sống, mộc mạc với đời thường trong mỗi gang tấc.
“Tìm về thế giới hoang nhiên
Làng đậm chất xóm thôn hiền thuở xưa
Rình bắt ếch đơm nò cua
Căn cù u trán thách đua tao mày
Be dường tát nước mê say
Lom khom bắt cá lưng đầy miệng oi…”
(Hoang nhiên)
          Hình
ảnh bắt ếch, căn cù, be dường… mở ra cả một thời; của “bầu trời” tuổi thơ. Thơ
rất đơn giản, vô tư, thanh bình mà chạm ngồn ngộn sức sống. 
Hay trong bài “Say”, tác
giả viết: “Xanh vàng đỏ trắng tím hồng/ Say trời say đất say bồng bềnh say/
Nằm chỏng vó chẳng ai hay/ Đêm thanh gió mát bên mày bên tao…”. Cái tự do,
nằm chỏng vó và xưng mày - tao quả là “sướng”, thân thiện và “đã đời” biết bao.
Cái khản khái tâm hồn ấy đáng trân trọng…
Ở bài “Bước đời”, ta cũng
bắt gặp niềm khảng khái, mong muốn vô tư, tự do nói cười ấy song tác giả đã
“đẩy” tới chiều kích sâu hơn, đáng suy ngẫm: 
“Đi qua đời lắm mùa trăng
Chiêng chao trôi nổi thăng trầm ẩm ương
Uống cho đã rượu vô thường
Tìm đường sáng rớt vô
phương mịt mù...”
“Rượu vô thường” là hình
ảnh gợi. Tác giả đã uống “đã” rồi nên rất am tường. Sự am tường thế thái nhân
tình, am tường quy luật cuộc đời. Nói cách khác, đấy chính là chất triết lý
trong thơ anh.
          2.
Thơ Mạc Minh trữ tình và tha thiết. 
Tha thiết với quê hương,
với xóm thôn mộc mạc, đặc biệt với Huế và dòng Hương. Hồn thơ quyện đến tím
lời: 
          “Đông về rả rích Huế mưa
Nam Bình Cổ Bản dạ thưa giọt bầu
Thuyền rồng đợi khách đã lâu
Sông Hương phẳng lặng nhuộm màu tím mơ.
(Thành Huế mưa đông)
          Tha
thiết, nhất là trong tình yêu anh dành cho nàng thơ, nàng gieo hình bóng thi vị
đẹp đến nao lòng. Sự ngập ngừng chớm yêu, bâng khuâng mơ mộng hay lúc cung bậc
tình xa nhớ đến tương tư vá víu, thắc thỏm hoặc cả khi nên nghĩa vợ chồng,
trong bài “Thú yêu thương”, nhà thơ viết: 
          “Trăm năm chẳng mấy đâu mà
Đã qua cái tuổi nết na nhu mì.
Da mồi chân yếu xếp ly
Tóc sương răng rụng thầm thì khó nghe.
Dù đời trôi nỗi nhiêu khê
Bên bà tôi vẫn một bề tròn
thương...”.
Chữ “tròn thương” nghe rất
dịu ngọt, ấm cúng và vẹn toàn. Nhà thơ Mạc Minh có rất nhiều bài thơ hay về đề
tài này, chủ yếu thể hiển ở phần B. Đúng như phần có tựa đề là Tình. Ở các bài:
“Lời của trái tim”, “Thơ và em”,… hay “Gửi em vòng nguyệt quế, có đoạn nồng say
như sau:
“Em trăng tím đẹp làm sao
Cây nguyệt quế tỏa ngọt ngào hương bay
Nhìn trăng đêm đẹp ngất ngây
Gửi em vòng nguyệt yêu say
tình nồng...”
          Hình
ảnh “trăng tím” thật thi vị và màu sắc ấy không đâu khác chính là màu của xứ
mộng mơ; màu của tình yêu khảm chạm, màu của nguyệt quế dâng hồn yêu. Hình ảnh
chàng trai ngập ngừng, thẹn thùa, bâng khuâng, mơ mộng… hiện ra như con người
thật; có trong một phần đời của tôi và bạn. “Chớm yêu thổn thức mơ màng/ Lần
đầu hôn nhẹ ngỡ ngàng môi thơm/ Hương nhè nhẹ thoảng từng cơn/ Nồng nàn đằm
thắm gió vờn lâng lâng” (Hoa bâng khuâng). 
3. Hướng tìm ý nghĩa cho
cuộc đời hạnh phúc.
Sau phần Nhân, có nghĩa là người, mở rộng ra, còn
nói lòng nhân đức và chữ Tình nhiều tha thiết ở phần B. Sang phần C, thơ Mạc Minh hướng về nghĩa chữ: Hạnh, hạnh
là hạnh phúc, vui mừng, hi vọng, mong chờ,… và cả hiếu hạnh, đức hạnh của con
người. Mở đầu phần này, tác giả đặt nhan đề bài thơ là “Nghĩa” để cắt nghĩa đời
như sau:
“Suốt đời đau đáu gia nương
Vợ chồng hôm sớm thậm thương nghĩa nghì
Không thở than chẳng bởi vì 
Gừng cay muối mặn tương tri
suốt đời…”
Cái nghĩa suốt đời ấy thật
tuyệt, thật lâu bền. Thơ còn đưa bạn đọc “chu du” cùng với nỗi lòng an nhiên;
nỗi lòng giữa chốn chợ đời; những tâm niệm trong câu kinh hay là với khoảnh
khắc thời gian cuối năm nhìn tờ lịch cuối cùng, thời gian chiều cuối đông; cả
những điều trong chính mình, ở bài “Một tôi”, “Đời trôi”, “Ru ta”… hay bài “Tôi
tìm tôi”, có câu: 
“Thôi đành qua ải làm ngơ
Thôi như ngọn gió phất phơ giữa trời
Thôi thì vô lượng với đời
Thôi thì thôi vậy vận lời
vô minh...”
          “Thôi
thì thôi vậy”, làm được người không chấp nhặt, buông xả ắc hẳn là nhẹ lòng.
Người khôn không ôm đồm, người trí không buồn bực, người dũng biết tiến lùi và
người hạnh thì luôn biết gieo niềm vui cho đời; không những thế, hạnh là sự
hiếu nghĩa vô bờ: 
          “Con ơi…đạo lý ở đời…
Tu thân tích đức giúp người nghe con.
Đói nghèo một dạ sắt son
Phụ bần tham phú bào mòn lương tri.
Con ơi… chiêm bái lễ nghi…”
(Lời cha dặn)
Lời thơ là lời dặn dò, tâm
niệm vàng ngọc của cha ông. Bằng thể thơ lục bát, nhà thơ đưa từng con chữ, ý
tứ, hình ảnh, ý tưởng… đến với bạn đọc nhẹ nhàng mà sâu lắng; mộc mạc chân
thành mà triết lý nhân sinh; đơn giản mà hiệu quả. 
4. Chất thiền trong thơ.
Nếu như ba phần đầu Nhân -
Tình - Hạnh là sự khởi sinh của con người; con người trong nhiều mối quan hệ xã
hội; con người bằng năng lực của mình cống hiến, giữ gìn nhân nghĩa… thì sang
phần cuối: Tâm, tác giả hướng vào bên trong, tìm về chất thiền thơ:
“Bóng thiền rụng khai đường tâm
Thời gian gõ bước lăng trầm hoang khai”
(Bóng thiền)
Hay:
“Cuộc người đừng đếm chẳng đong
Bước qua ngũ giới thoát vòng sân si.
Chẳng giá như hoặc bởi vì
Tọa thiền sơn quán huyền vi thiện lành...”
(Thiền)
Tìm về nội tâm hay tìm về
bản chất bên trong để biết mình, hiểu được “huyền vi thiện lành” như tác giả
mong muốn. Đó là vì cuộc dân gian: “Mỗi bước chân một sát na”, “Cuộc
đời sâu thẳm gian truân/ Cuộc người dâu bể đường trần chông gai” nên nhà
thơ muốn hướng tâm để: “Tìm một chút ấm khoan thai”… Vậy đó, đường trần
dẫu bao nhiêu xoay vần con tạo đi nữa thì khi con người được thư thả, khoan
thai là hạnh phúc, an yên. 
          ***
Thơ Mạc Minh viết với nhiều
cung bậc, thể hiện sự am tường thế sự. Anh mở rộng không thời gian đa chiều. Có
khi là mơ, là ký ức, ở nội tại hoặc cả ướm hồn về tương lai tươi mới. Thơ hòa
quyện với cuộc sống, nhân nghĩa với cuộc đời, đau đáu với quê hương, tha thiết
tình người… Đặc biệt, trong tập thứ tám này - “Lục bát trầm” với thể thơ
truyền thống, nhà thơ đã khai phá nét trữ tình, tự sự một cách nhịp nhàng, nhẹ
nhàng đáng quý và bạn đọc gặp được “lời ru” thắm tình, “lời ca dao” răn dạy,
lời chân tình gửi gắm. 
Lục bát trầm là nốt trầm xao xuyến hay là trầm của hương
thơm? Điều thi vị, ngọt ngào ấy dành để bạn đọc giải mã thi phẩm khi tiếp cận. 
Huế,
tháng 10 năm 2024
Đặng Văn
Sử
 

 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét