NỐT TRẦM XAO XUYẾN hay HƯƠNG TRẦM TOẢ LAN? - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Chào mừng "Ngày Phụ nữ Việt Nam - 20.10".

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2024

NỐT TRẦM XAO XUYẾN hay HƯƠNG TRẦM TOẢ LAN?

 

NỐT TRẦM XAO XUYẾN hay  HƯƠNG TRẦM TOẢ LAN?

(Đọc tập thơ Lục bát trầm của Mạc Minh)

         

 

        Giữa muôn vàn âm thanh; giữa “muôn màu” thi ca, có một nhà thơ đương đại chọn cho mình một âm thanh: trầm lắng; chọn một hình thức thơ truyền thống: Lục bát. Đó là nhà thơ Mạc Minh với thi phẩm Lục bát trầm.  

          Xét ở góc độ âm nhạc, âm trầm đóng một vai trò quan trọng bởi không bổng thì trầm; một trong hai trạng thái ấy mà làm nên “tiếng đời”. Có lẽ từ “trầm” trong tập thơ này, nhà thơ đã chọn phần sâu lắng, phần tịnh của cuộc đời để thể hiện. Bài thơ cùng tên nhan để tập sách, nhà thơ viết: “Một cung người một đời thơ/ Đêm ngày đau đáu vật vờ hồ như”. “Đau đáu” là luôn nghĩ về, chiêm nghiệm đời và gieo hồn vào thơ. Sự đau đáu ấy thể hiện qua bốn phần của tập sách: Phần A là Nhân; phần B là Tình, Phần C là Hạnh và phần cuối là Tâm.

          Thơ Mạc Minh chân thành, tha thiết, sâu lắng… và ẩn dụ nhiều nỗi lòng tha nhân.           Chân thành với cuộc sống, với lòng mình, với tình người. Tha thiết với quê hương đất nước, với tình yêu. Sâu lắng ở tâm hồn và trong chiều suy nghĩ, mang màu sắc triết lý nhân sinh quan. Ẩn dụ nhiều hình ảnh, ý tưởng để khai phá thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm. 

          ***

          1. Chân thành với cuộc sống, mộc mạc với đời thường trong mỗi gang tấc.

Tìm về thế giới hoang nhiên

Làng đậm chất xóm thôn hiền thuở xưa

Rình bắt ếch đơm nò cua

Căn cù u trán thách đua tao mày

Be dường tát nước mê say

Lom khom bắt cá lưng đầy miệng oi…

(Hoang nhiên)

          Hình ảnh bắt ếch, căn cù, be dường… mở ra cả một thời; của “bầu trời” tuổi thơ. Thơ rất đơn giản, vô tư, thanh bình mà chạm ngồn ngộn sức sống. 

Hay trong bài “Say”, tác giả viết: “Xanh vàng đỏ trắng tím hồng/ Say trời say đất say bồng bềnh say/ Nằm chỏng vó chẳng ai hay/ Đêm thanh gió mát bên mày bên tao…”. Cái tự do, nằm chỏng vó và xưng mày - tao quả là “sướng”, thân thiện và “đã đời” biết bao. Cái khản khái tâm hồn ấy đáng trân trọng…

Ở bài “Bước đời”, ta cũng bắt gặp niềm khảng khái, mong muốn vô tư, tự do nói cười ấy song tác giả đã “đẩy” tới chiều kích sâu hơn, đáng suy ngẫm: 

Đi qua đời lắm mùa trăng

Chiêng chao trôi nổi thăng trầm ẩm ương

Uống cho đã rượu vô thường

Tìm đường sáng rớt vô phương mịt mù...”

“Rượu vô thường” là hình ảnh gợi. Tác giả đã uống “đã” rồi nên rất am tường. Sự am tường thế thái nhân tình, am tường quy luật cuộc đời. Nói cách khác, đấy chính là chất triết lý trong thơ anh.

          2. Thơ Mạc Minh trữ tình và tha thiết. 

Tha thiết với quê hương, với xóm thôn mộc mạc, đặc biệt với Huế và dòng Hương. Hồn thơ quyện đến tím lời: 

          Đông về rả rích Huế mưa

Nam Bình Cổ Bản dạ thưa giọt bầu

Thuyền rồng đợi khách đã lâu

Sông Hương phẳng lặng nhuộm màu tím mơ.

(Thành Huế mưa đông)

          Tha thiết, nhất là trong tình yêu anh dành cho nàng thơ, nàng gieo hình bóng thi vị đẹp đến nao lòng. Sự ngập ngừng chớm yêu, bâng khuâng mơ mộng hay lúc cung bậc tình xa nhớ đến tương tư vá víu, thắc thỏm hoặc cả khi nên nghĩa vợ chồng, trong bài “Thú yêu thương”, nhà thơ viết: 

          Trăm năm chẳng mấy đâu mà

Đã qua cái tuổi nết na nhu mì.

Da mồi chân yếu xếp ly

Tóc sương răng rụng thầm thì khó nghe.

 

Dù đời trôi nỗi nhiêu khê

Bên bà tôi vẫn một bề tròn thương...”.

Chữ “tròn thương” nghe rất dịu ngọt, ấm cúng và vẹn toàn. Nhà thơ Mạc Minh có rất nhiều bài thơ hay về đề tài này, chủ yếu thể hiển ở phần B. Đúng như phần có tựa đề là Tình. Ở các bài: “Lời của trái tim”, “Thơ và em”,… hay “Gửi em vòng nguyệt quế, có đoạn nồng say như sau:

Em trăng tím đẹp làm sao

Cây nguyệt quế tỏa ngọt ngào hương bay

Nhìn trăng đêm đẹp ngất ngây

Gửi em vòng nguyệt yêu say tình nồng...

          Hình ảnh “trăng tím” thật thi vị và màu sắc ấy không đâu khác chính là màu của xứ mộng mơ; màu của tình yêu khảm chạm, màu của nguyệt quế dâng hồn yêu. Hình ảnh chàng trai ngập ngừng, thẹn thùa, bâng khuâng, mơ mộng… hiện ra như con người thật; có trong một phần đời của tôi và bạn. “Chớm yêu thổn thức mơ màng/ Lần đầu hôn nhẹ ngỡ ngàng môi thơm/ Hương nhè nhẹ thoảng từng cơn/ Nồng nàn đằm thắm gió vờn lâng lâng” (Hoa bâng khuâng). 

3. Hướng tìm ý nghĩa cho cuộc đời hạnh phúc.

Sau phần Nhân, có nghĩa là người, mở rộng ra, còn nói lòng nhân đức và chữ Tình nhiều tha thiết ở phần B. Sang phần C, thơ Mạc Minh hướng về nghĩa chữ: Hạnh, hạnh là hạnh phúc, vui mừng, hi vọng, mong chờ,… và cả hiếu hạnh, đức hạnh của con người. Mở đầu phần này, tác giả đặt nhan đề bài thơ là “Nghĩa” để cắt nghĩa đời như sau:

Suốt đời đau đáu gia nương

Vợ chồng hôm sớm thậm thương nghĩa nghì

Không thở than chẳng bởi vì 

Gừng cay muối mặn tương tri suốt đời…”

Cái nghĩa suốt đời ấy thật tuyệt, thật lâu bền. Thơ còn đưa bạn đọc “chu du” cùng với nỗi lòng an nhiên; nỗi lòng giữa chốn chợ đời; những tâm niệm trong câu kinh hay là với khoảnh khắc thời gian cuối năm nhìn tờ lịch cuối cùng, thời gian chiều cuối đông; cả những điều trong chính mình, ở bài “Một tôi”, “Đời trôi”, “Ru ta”… hay bài “Tôi tìm tôi”, có câu: 

Thôi đành qua ải làm ngơ

Thôi như ngọn gió phất phơ giữa trời

Thôi thì vô lượng với đời

Thôi thì thôi vậy vận lời vô minh...”

          “Thôi thì thôi vậy”, làm được người không chấp nhặt, buông xả ắc hẳn là nhẹ lòng. Người khôn không ôm đồm, người trí không buồn bực, người dũng biết tiến lùi và người hạnh thì luôn biết gieo niềm vui cho đời; không những thế, hạnh là sự hiếu nghĩa vô bờ: 

          Con ơi…đạo lý ở đời…

Tu thân tích đức giúp người nghe con.

Đói nghèo một dạ sắt son

Phụ bần tham phú bào mòn lương tri.

Con ơi… chiêm bái lễ nghi…”

(Lời cha dặn)

Lời thơ là lời dặn dò, tâm niệm vàng ngọc của cha ông. Bằng thể thơ lục bát, nhà thơ đưa từng con chữ, ý tứ, hình ảnh, ý tưởng… đến với bạn đọc nhẹ nhàng mà sâu lắng; mộc mạc chân thành mà triết lý nhân sinh; đơn giản mà hiệu quả. 

4. Chất thiền trong thơ.

Nếu như ba phần đầu Nhân - Tình - Hạnh là sự khởi sinh của con người; con người trong nhiều mối quan hệ xã hội; con người bằng năng lực của mình cống hiến, giữ gìn nhân nghĩa… thì sang phần cuối: Tâm, tác giả hướng vào bên trong, tìm về chất thiền thơ:

Bóng thiền rụng khai đường tâm

Thời gian gõ bước lăng trầm hoang khai

(Bóng thiền)

Hay:

Cuộc người đừng đếm chẳng đong

Bước qua ngũ giới thoát vòng sân si.

 

Chẳng giá như hoặc bởi vì

Tọa thiền sơn quán huyền vi thiện lành...”

(Thiền)

Tìm về nội tâm hay tìm về bản chất bên trong để biết mình, hiểu được “huyền vi thiện lành” như tác giả mong muốn. Đó là vì cuộc dân gian: “Mỗi bước chân một sát na”, “Cuộc đời sâu thẳm gian truân/ Cuộc người dâu bể đường trần chông gai” nên nhà thơ muốn hướng tâm để: “Tìm một chút ấm khoan thai”… Vậy đó, đường trần dẫu bao nhiêu xoay vần con tạo đi nữa thì khi con người được thư thả, khoan thai là hạnh phúc, an yên. 

          ***

Thơ Mạc Minh viết với nhiều cung bậc, thể hiện sự am tường thế sự. Anh mở rộng không thời gian đa chiều. Có khi là mơ, là ký ức, ở nội tại hoặc cả ướm hồn về tương lai tươi mới. Thơ hòa quyện với cuộc sống, nhân nghĩa với cuộc đời, đau đáu với quê hương, tha thiết tình người… Đặc biệt, trong tập thứ tám này - “Lục bát trầm” với thể thơ truyền thống, nhà thơ đã khai phá nét trữ tình, tự sự một cách nhịp nhàng, nhẹ nhàng đáng quý và bạn đọc gặp được “lời ru” thắm tình, “lời ca dao” răn dạy, lời chân tình gửi gắm. 

Lục bát trầm là nốt trầm xao xuyến hay là trầm của hương thơm? Điều thi vị, ngọt ngào ấy dành để bạn đọc giải mã thi phẩm khi tiếp cận.

 

Huế, tháng 10 năm 2024

Đặng Văn Sử

 

Không có nhận xét nào: