BUỒN XƯA KHÉP LẠI MỘT DÒNG THƠ SAY (Đọc tập thơ "Cõi Sắc Không" của Lê Đức Thành) - NGỌN ĐÈN THƠ

TRANG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

BÀI VIẾT ĐỌC NHIỀU

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2024

BUỒN XƯA KHÉP LẠI MỘT DÒNG THƠ SAY (Đọc tập thơ "Cõi Sắc Không" của Lê Đức Thành)

 

BUỒN XƯA KHÉP LẠI

MỘT DÒNG THƠ SAY

          Thơ là thứ nghệ thuật của ngôn từ. Nhà thơ chính là người làm thứ nghệ thuật diệu vợi, tuyệt vời ấy. Chính anh ta là kẻ “tư duy” nhiều và đặc biệt về ngôn ngữ. Thơ là men, là rượu, là ánh trăng; thơ là phép cộng của thao thức, phép trừ của gầy hao... là trên con đường tìm đến cái đẹp hoàn hảo.

          Thơ “Cõi sắc không” là tấc lòng chân thành của nhà thơ Lê Đức Thành, anh viết:

          “Rượu sông hồ men cháy một mùa say


          Ngày lữ thứ rong rêu đời bất bạt

          Gió phong ba thấm lạnh kiếp lưu đày

          Ta vẫn hát nghêu ngao câu du thử...”

                   (Dấu mùa xưa)

          1. Trong dấu ấn ngôn ngữ thơ của tác giả, từ “Rượu” được thăng hoa và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Rượu không chỉ để giải sầu, tiêu dao mà còn yếu tố quan trọng trong lễ hội, dịp gặp gỡ giao lưu... Nó trở thành nét đẹp văn hoá; đồng thời là chất men cuộc đời. Rượu làm cho người say, cũng cho người tỉnh. Tỉnh - say giữa cõi ba đào.

          Trong tập thơ “Cõi sắc không”, rượu được nhắc đến 45 lần. Mỗi lần là mỗi cung bậc, tâm trạng, cảm xúc khác nhau: “rượu hề”, “rượu cay”, “rượu nóng”, “rượu cạn”, “rượu mời” hay có cả “rượu tràn ly”, “rượu hoàng hoa”, “rượu sông hồ”... Tất cả thành thiêng liêng và trân trọng:

          Ta đứng dậy từ hoàng hôn bóng đổ

          Rượu sông hồ say đổ giữa hoang xưa

          Em hong ấm mùa đông bên bếp lửa

          Tình không không biết mấy cho vừa.”

                   (Tình không không)

          Chính rượu đã quật khởi hoàng hôn cho thi nhân đứng dậy giữa hoang xưa. Rượu và em đã hong ấm mùa đông cho cuộc tình mãi mãi. Hay trong bài “Thiên thu tựu”, tác giả viết: “Nghe sóng vỗ bên kia mùa nước lũ/ Ly rượu hề khoác lác chuyện tri âm”.

          Có thể nói từ “Rượu” là ký hiệu “gene chữ” của nhà thơ Lê Đức Thành. “Gene chữ” là những chữ quen thuộc mang phong cách tác giả, phong cách văn bản được thể hiện qua lần xuất hiện trong trường từ vựng của nhà thơ.

          2. Gene chữ hay là rượu mới chỉ là ký tự, xác chữ, thói quen, phong cách ngôn ngữ. Đọc thơ anh, bạn đọc còn nhận được chữ Tình sâu sắc, “đa diện”, tổng hòa các mối tương quan xã hội.

          Đó là mối quan hệ tình cảm bạn bè, tình thầy trò trường lớp, ví như bài: “Trường xưa ơi”, “Tâm sự người lữ khách”,... hay bài “Mùa hè”, nhà thơ viết:

          Ngày xa xứ ta nhớ góc vườn cũ

          Nến lung linh bè bạn nối tay nhau

          Hát tình ca và rượu tràn xuống cốc

          Mai hư vô sương khói cũng nhuộm màu”.

          Đó là tình yêu thương với người thân: cha, mẹ, vợ, con... Anh có nhiều bài hay viết tặng người thân trong dịp sinh nhật của họ, như: “Sinh nhật vợ”, “Bến mùa xuân”... “Tặng con mùa sinh nhật/ Bài thơ đong gạo đầy/ Thôi hết mùa khốn khó/ Mai gió sẽ gặp mây.” (Mừng sinh nhật con). Vâng, qua mùa khốn khó sẽ được thịnh vượng. “Cá gặp nước, rồng gặp mây”. Một ẩn dụ khiêm nhường, một mơ ước tương lai tươi đẹp trong thi ảnh thơ.

          Chữ Tình trong thơ Lê Đức Thành dành phần nhiều cho đời và phần đẹp nhất cho em. Em - nàng thơ - nhân vật trữ tình - đối tượng thẩm mĩ trong thơ. Em là vầng trăng, em là tiếng nguyệt cầm, em là gió mây... thành nỗi nhớ trong tim:

          Trăng treo đầu sóng viết chữ Tâm

          Em nụ cười duyên đêm nguyệt cầm

          Lãng đãng mùa say đàn réo gọi

          Thơ bay trên phá gọi tri âm.”

                   (Đêm nguyệt cầm)

          Có thể, cái tôi - chủ thể “lãng đãng” say nên thơ bay. Cũng có thể đối tượng thẩm mỹ bên ngoài làm thơ say. “Em chừ như gió mông mênh/ Chim di mỏi cánh/ đầu ghềnh bãi xa/ Ngày mai bóng xế trăng tà/ Chết vành tang trắng cùng ta trở về...” (Bến xưa). Tình yêu bao giờ cũng mênh mông, miên man, hư ảo và được - mất để đong đầy thi tứ cho thơ.

          3. Chữ Tình chẳng bao giờ nói hết còn chữ Ta thì sao? Chữ Ta - cái tôi trữ tình bao hàm tất thảy. Thơ “Cõi sắc không”, từ “Ta” xuất hiện 30 lần. Tần số ấy là sự khẳng định chủ thể; cái chủ thể nhiều biến hóa giữa bến phù vân, với cõi sắc không, nơi chốn ta bà, xứ sở vô vi...

          Nếu như Rượu là để say, Tình để lưu luyến thì Ta đầy thao thức. Ta “tự thán”; “ta vắt kiệt mùa chơi”, “ta hái quả u minh”, “ta đi trong ngày mới”, “ta đứng lặng chiều bơ vơ”, “ta nụ cười hư hao”... Ta của ẩn ức đời; hoài niệm và phiêu du.

          Nhà thơ ẩn ức lòng lên trang thơ bởi những thói đời tham ô, xấu xa. Anh muốn kêu gọi, đấu tranh, chống lại thứ tiêu cực:

          Mai thiết triều ta dùng thanh kiếm lệnh

          Bêu hết đầu lũ bán nước buôn dân

          Chặt tay chân bọn tham ô quan lại

          Gửi nụ cười thanh thản đến muôn dân”

                   (Lời của sấm)

          Trái tim nhà thơ muốn đứng về chân lý. Và, sự hoài niệm, nhớ xưa là một nét “trang đài, diễm lệ” cho thơ nói chung và tác giả “Cõi sắc không” nói riêng:

          Ta độc hành giữa mồ côi hoàng hôn

          Có tiếng dế vọng lên từ mộ chí

          Âm thoại buồn trong gió của hoang xưa

          Tóc bạc trắng còn thương buổi xuân thì

                   (Độc hành)

          Bên cạnh ẩn ức, hoài niệm, độc hành... thì sự phiêu du, còn là một biểu hiện trừng trải đó đây của người cầm bút. Anh đi nhiều nơi. Đi để nhớ, để thương và để về. “Cuộc đi định nghĩa ngày về” là vậy. “Ta, hề say giữa chiều cố cựu/ Khúc Thụy Du bên nhánh sông đời/ Chiếc lá cuối thu vàng thương nhớ/ Ta đi về quanh nốt thời gian” (Say). Nếu nhà triết học là người hoài nghi thì thi sĩ là kẻ mang nỗi thiên di tìm bến mộng - thực...

          Tóm lại, đọc thơ Lê Đức Thành từ các tập “Bóng quê nhà”, “Cõi rong rêu”, “Sắc màu đa diện” và đến “Cõi sắc không”, độc giả đã quen phong cách thơ: Trầm lắng mà sâu sắc; phải chăng đất thần kinh lưu dấu? Hùng cường và chút bi tráng; phải chăng từ chất lính toát ra? Nét thơ thiền ẩn giật; đến từ ngộ đời cõi sắc không? Dấu ấn thơ nhiều hình ảnh tinh tuyển; đó là từ va vấp thế sự mà nên?...

          Thơ “Cõi sắc không” là một bước tiến xa, chắc lọc, tinh túy của hồn thơ đa tài, bền bỉ và thầm lặng. Tập thơ còn như là cuốn nhật ký đặc biệt không chỉ về tâm tư mà có cả thời cuộc. Trong đó, dư âm mùa Covid hiện lên khá rõ.

          Bài viết nhỏ này chưa khai thác hết mọi khía cạnh. Đây mới là lời chúc mừng và đón đợi tác phẩm. Xin khép lại bài viết bằng chính câu thơ của tác giả Lê Đức Thành: “Ta về bên cõi sắc không/ Buồn xưa khép lại một dòng thơ say...”

          Đặng Văn Sử



Không có nhận xét nào:

Trang